Để
thực
hiện
chiến
lược
phòng
bệnh
hoại
tử
gan
tụy
cấp
(AHPND)
hay
hội
chứng
tôm
chết
sớm
(EMS),
người
nuôi
cần
phải
tạo
ra
môi
một
môi
trường
ao
nuôi
mà
điều
kiện
trong
ao
không
phù
hợp
để
quần
thể
V.
parahaemolyticus
phát
triển.
Quản
lí
một
cách
tổng
thể
môi
trường
nuôi
từ
các
yếu
tố
tiềm
ẩn
nguy
cơ
phát
triển
của
mầm
bệnh
là
biện
pháp
phòng
ngừa
tốt
nhất.
Trước
hết,
người
nuôi
phải
duy
trì
các
chỉ
tiêu
môi
trường
luôn
ổn
định
và
luôn
ở
ngưỡng
thích
hợp
để
tôm
phát
triển.
Bên
cạnh
đó,
đối
tượng
nuôi
cần
phải
được
cung
cấp
đầy
đủ
chất
dinh
dưỡng
và
các
chất
có
khả
năng
tăng
cường
sức
đề
kháng.
Đồng
thời
sử
dụng
các
chế
phẩm
sinh
học
cũng
như
các
biện
pháp
thay
nước
và
rút
cặn
để
xử
lý
lượng
chất
thải
trong
ao
nuôi.
Quản
lý
trại
giống
và
trại
ương
dưỡng
bố
mẹ
Một
trại
giống
tốt
phải
được
vận
hành
dưới
sự
kiểm
dịch
nghiêm
ngặt,
thông
qua
một
chương
trình
giám
sát
chặt
chẽ
để
đảm
bảo
không
có
sự
hiện
diện
của
một
mầm
bệnh
cụ
thể
(Specific
pathogen
free)
và
phải
áp
dụng
các
biện
pháp
an
toàn
sinh
học
nghiêm
ngặt
(như
xử
dụng
các
hóa
chất
khử
khuẩn
khi
ra
vào
và
các
dụng
cụ
trong
quá
trình
nuôi
phải
được
ngâm
trong
các
dung
dịch
này).
Tôm
bố
mẹ
được
cho
là
một
trong
những
nguồn
lây
EMS
cho
thế
hệ
con
cái.
Do
đó,
việc
khử
trùng
Nauplius
và
các
vật
liệu
được
sử
dụng
trong
trại
giống
là
hết
sức
cần
thiết.
Hơn
thế
nữa,
việc
cải
thiện
khẩu
phần
ăn
hợp
lí
cho
tôm
bố
mẹ
góp
phần
loại
bỏ
nguy
cơ
lây
truyền
mầm
bệnh
qua
thức
ăn
tự
nhiên.
Kiểm
tra
ấu
trùng
Nauplius
trước
khi
thả
vào
bể
ương
thông
qua
các
kỹ
thuật
chuẩn
đoán
như
PCR
để
đảm
bảo
tính
sạch
bệnh
ấu
trùng.
Tôm
bị
bệnh
EMS
chết
sớm
và
chết
hàng
loạt.
Ảnh: thuysanvietnam.com.vn
Ngay
khi
ấu
trùng
chuyển
sang
giai
đoạn
tự
kiếm
ăn
(giai
đoạn
Zoae),
áp
dụng
khẩu
phần
ăn
có
sự
kết
hợp
giữa
quản
lý
thức
ăn
công
nghiệp
và
thức
ăn
tươi
sống
(tảo,
Artemia)
là
rất
cần
thiết.
Thức
ăn
tươi
sống
nên
được
xử
lý
trước
khi
cho
ấu
trùng
tôm
ăn,
vì
đây
cũng
được
cho
là
một
trong
những
nguồn
mang
mầm
bệnh
EMS
vào
hệ
thống
ương.
Bên
cạnh
đó,
việc
bổ
sung
các
chế
phẩm
vi
sinh
(Probiotics)
trong
thức
ăn
cũng
như
trong
môi
trường
nước
là
rất
cần
thiết
để
ức
chế
sự
phát
triển
của
nhóm
vi
khuận
có
hại
ngay
từ
bên
trong
tôm
lẫn
môi
trường
sống.
Các
vi
sinh
vật
này
hoàn
toàn
có
thể
hạn
chế
được
sự
phát
triển
của
mầm
bệnh,
giúp
hạn
chế
việc
sử
dụng
kháng
sinh
nhằm
hướng
đến
một
mô
hình
nuôi
tôm
sinh
học.
Postlarvae
trước
khi
bán
hay
vận
chuyển
ra
bên
ngoài
nên
được
kiểm
tra
sức
khỏe
như
thông
qua
các
phương
pháp
như
sốc
formaline,
độ
mặn
hay
kiểm
tra
cân
nặng
và
chiều
dài
cũng
như
tỷ
lệ
phân
đàn
để
đảm
bảo
được
chất
lượng
tôm
giống
khi
bán
ra.
Tỷ
lệ
phù
hợp
giữa
thức
ăn
công
nghiệp
và
Artemia.
Ảnh:
Tepbac
*Ghi
chú:
Survival:
Tỷ
lệ
sống;
Invidiual
wet
weight:
Khối
lượng
tươi
của
tôm.
Hiện
nay
các
sản
phẩm
được
triết
suất
từ
thực
vật
hay
các
loại
thảo
dược
đang
ngày
càng
được
áp
dụng
rộng
rãi
vào
khuẩn
phần
ăn
cũng
như
bổ
sung
trực
tiếp
vào
hệ
thống
ao
nuôi.
Các
sản
phẩm
này
được
các
nhà
khoa
học
khuyến
khích
sử
dụng
vì
tính
an
toàn
cũng
như
mang
lại
hiệu
quả
cao
và
có
khả
năng
diệt
khuẩn
nhất
định.
Các
sản
phẩm
từ
cỏ
xước
(Achyranthes
aspera)
và
bầu
nâu
(Indian
bael)
có
khả
năng
ức
chết
sự
phát
triển
của
nhóm
vi
khuẩn
A.
hydrophila.
Hay
chất
chiết
từ
lá
cây
Neem
Ấn
Độ
(Azadirachta
Indica)
có
khả
năng
chống
lại
nhóm
vi
khuẩn
V.harveyi.
Tỷ
lệ
sống
của
ấu
trùng
tôm
trong
quá
trình
ương
sử
dụng
chất
chiết
xuất
từ
thực
vật.
Ảnh: Tepbac
*Chú
thích:
CFU:
đơn
vị
hình
thành
khuẩn
lạc;
Per
postlarva:
trên
một
tôm
post;
Per
ml
water:
trên
một
ml
nước
bể
ương;
Control:
nghiệm
thức
đối
chứng;
Phytobiotic
mix:
NT
sử
dụng
thảo
dược.
Quản
lý
ao
nuôi
thương
phẩm
Đối
với
ao
nuôi
thương
phẩm,
việc
chuẩn
bị
ao
trước
vụ
nuôi
là
rất
quan
trọng.
Nên
sử
dụng
các
loại
hóa
chất
có
khả
năng
diệt
khuẩn
mạnh
như
NaOH,
HCl
và
Clorine…
để
loại
bỏ
triết
để
mầm
bệnh
cũng
như
các
loài
sinh
vật
không
mong
muốn.
Bên
cạnh
đó,
việc
xây
dựng
một
cộng
đồng
vi
sinh
vật
hữu
ích
ở
trong
ao
nuôi
là
rất
cần
thiết
để
cạnh
tranh
cũng
như
ức
chế
sự
phát
triển
nhóm
vi
khuẩn
Vibrio
thông
qua
bổ
sung
các
chể
phẩm
vi
sinh
(Probiotics)
trước
khi
thả
và
trong
suốt
quá
trình
nuôi.
Bổ
sung
các
loại
enzyme,
chất
kích
thích
miễn
dịch
và
dược
thực
phẩm
(nutraceutical)
cũng
được
các
chuyên
gia
khuyến
nghị
nên
sử
dụng
để
góp
phần
tăng
tường
khả
năng
miễn
dịch
của
tôm.
Tảo
cũng
đóng
một
vai
trò
quan
trọng
trong
các
ao
nuôi,
như
gây
màu
nước,
cung
cấp
oxy
thông
qua
quá
trình
quang
hợp
và
góp
phần
làm
sạch
môi
trường
nước.
Nên
bón
phân
và
bổ
sung
cacbon
(từ
đường
hoặc
rỉ
đường)
để
có
được
sự
cân
bằng
C:
N:
P
thích
hợp.
Sau
vài
tuần,
tùy
thuộc
vào
mật
độ
nuôi
và
hàm
lượng
chất
hữu
cơ
trong
nước
lúc
này
tảo
sẽ
phát
triển.
Một
điều
mà
người
nông
dân
cần
phải
lưu
ý
đó
là
tảo
cũng
có
thể
là
con
dao
hai
lưỡi
nếu
không
được
quản
lí
tốt.
Các
chỉ
tiêu
môi
trường
như
nồng
độ
oxy
hòa
tan,
pH
và
chất
thải
trong
ao
rất
cần
được
quản
lí
hợp
lí.
Các
thiết
bị
sục
khí
hay
các
cánh
quạt
nước
phải
được
lắp
đặt
đúng
cách
để
chúng
có
thể
đảo
đều
nước
toàn
bộ
các
vị
trí
trong
ao
cũng
như
cung
cấp
đầy
đủ
oxy
cho
tôm
và
luôn
duy
trì
mức
oxy
trên
4mg/L.
Để
duy
trì
pH
luôn
ổn
định,
ta
cần
một
hệ
đệm
trong
nước
luôn
ổn
định
thông
qua
việc
duy
trì
độ
kiềm
>
150mg/L
.
Bùn
đáy
phải
được
loại
bỏ
thường
xuyên
bằng
cách
siphon
đáy
ao.
Lượng
thức
ăn
dư
thừa
được
cho
là
một
trong
những
nguyên
nhân
chính
làm
tăng
lượng
bùn
đáy.
Hơn
thế
nữa,
việc
lắp
đặt
các
quạt
nước
và
thiết
kế
đáy
ao
hợp
lí
góp
phần
tập
trung
chất
thải
tại
một
góc
ở
nền
đáy
giúp
cho
việc
siphon
trở
nên
thuận
tiện
hơn.
Nguồn
nước
trước
và
sau
khi
sử
dụng
nên
được
xử
lý.
Đặc
biệt
là
nước
thải
nên
được
xử
lý
trước
khi
thải
ra
môi
trường
để
tránh
tình
trạng
lây
lan
dịch
bệnh
cũng
như
bảo
vệ
môi
trường.
Hy
vọng
những
thông
tin
trên
có
thể
giúp
bà
con
phòng
bệnh
AHPND
được
hiệu
quả.