Mặc
dù
đang
cao
điểm
thả
giống
tôm
biển
nhưng
do
tình
hình
thời
tiết
còn
diễn
biến
phức
tạp,
nhiệt
độ
dao
động
giữa
ngày
và
đêm
lớn
đã
tạo
điều
kiện
cho
mầm
bệnh
đốm
trắng
trong
ao
phát
sinh
và
có
dấu
hiệu
bùng
phát
ở
địa
bàn
một
số
xã
nuôi
tôm
biển
tập
trung,
chiếm
trên
16%
tổng
diện
tích
thả
nuôi.
Mặt
khác,
theo
kết
quả
phân
tích
mẫu
tôm
bệnh
thực
hiện
công
tác
chống
dịch
của
Chi
cục
Nuôi
trồng
thủy
sản
trong
các
ngày
cuối
tháng
2
và
đầu
tháng
3/2015
đã
phát
hiện
100%
mẫu
bị
nhiễm
bệnh
đốm
trắng
và
có
chiều
hướng
ngày
càng
gia
tăng.
Đối
với
ao
nuôi
đã
bị
nhiễm
bệnh
đốm
trắng
Để
đảm
bảo
kế
hoạch
vụ
nuôi
tôm
nước
lợ
năm
2015
và
hạn
chế
rủi
ro
thiệt
hại
do
dịch
bệnh
đốm
trắng,
người
nuôi
cần
áp
dụng
ngay
một
số
giải
pháp
như:
không
thả
giống
vào
thời
điểm
dịch
bệnh
đốm
trắng
đang
bùng
phát,
tốt
nhất
chờ
mưa
xuống
mới
tiếp
tục
thả
nuôi
và
lưu
ý
thả
giống
rải
vụ
trong
suốt
vụ
nuôi;
chấp
hành
nghiêm
khung
lịch
thời
vụ
nuôi
tôm
biển
năm
2015
do
UBND
tỉnh
ban
hành;
thường
xuyên
theo
dõi
thông
tin
về
điều
kiện
môi
trường,
thời
tiết,
kết
quả
quan
trắc
môi
trường,
khi
nào
môi
trường
nuôi
thật
sự
ổn
định
mới
thả
giống
và
nên
chọn
thời
điểm
thả
giống
phù
hợp.
Ngoài
thực
hiện
đúng
quy
trình
kỹ
thuật
cải
tạo
ao
nuôi,
người
dân
đặc
biệt
chú
ý
các
vấn
đề
sau:
Vớt
sạch
xác
tôm
chết
và
đem
chôn
tại
nơi
an
toàn;
bơm
hết
lớp
bùn
đáy
ao
vào
ao
chứa
bùn;
rửa
ao
nhiều
lần,
nếu
dùng
máy
bơm
phun
rửa
ao
thì
hiệu
quả
sẽ
cao
hơn;
rải
vôi,
phơi
đáy
ao
ít
nhất
một
tháng
nhằm
tiêu
diệt
mầm
bệnh
có
trong
ao.
Lấy
nước
vừa
ngập
nền
đáy
ao,
dùng
Formol
tạt
đều
khắp
nền
đáy
ao,
liều
lượng
200
lít/1.000
m3
nước,
ngâm
ít
nhất
24
giờ
sau
đó
xả
cạn;
sử
dụng
hóa
chất
Chlorine
diệt
hết
dịch
hại
còn
sót
lại
ở
mương
giữa
và
bờ
ao.
Tiến
hành
rửa
và
ngâm
đáy
ao
2
-
3
lần
bằng
vôi
(CaO),
liều
lượng
50
kg/1.000
m2,
sử
dụng
thêm
vôi
CaCO3
rải
đều
khắp
nền
đáy
và
bờ
ao
liều
lượng
20
-
25
kg/1.000
m2.
Sau
đó
tiếp
tục
phơi
ao
từ
5
-
7
ngày,
phơi
khô
đáy
ao,
cày
xới
nhằm
kiểm
soát
chất
hữu
cơ
và
các
tác
nhân
gây
bệnh.
Tiệt
trùng
nguồn
nước
đầu
vào
trong
ao
lắng
hoặc
ao
nuôi
trước
khi
thả
tôm
bằng
hóa
chất
Chlorine
liều
lượng
30
ppm
(30
kg/1.000
m3).
Sau
đó
sử
dụng
EDTA
liều
lượng
thích
hợp
để
khử
Chlorine
còn
tồn
dư
trong
ao
nuôi.
Kiểm
tra,
theo
dõi
dịch
bệnh
trên
tôm
ở
xã
An
Điền,
huyện
Thạnh
Phú
-
Ảnh:
Hữu
Hiệp
Đối
với
ao
nuôi
đã
lấy
nước
chuẩn
bị
thả
giống
Không
nên
thả
giống
vào
thời
điểm
hiện
nay
do
dịch
bệnh
đốm
trắng
đang
bùng
phát
và
có
dấu
hiệu
lây
lan.
Theo
dõi
chặt
chẽ
điều
kiện
môi
trường,
thời
tiết
khi
nào
thật
sự
ổn
định
mới
thả
giống.
Trước
khi
thả
giống,
cần
lưu
ý
một
số
nội
dung
như
gây
màu
nước
và
kiểm
tra
các
chỉ
tiêu
môi
trường
và
mật
độ
vi
khuẩn
Vibrio
parahaemolyticus
đảm
bảo
ổn
định.
Tôm
giống
phải
có
giấy
kiểm
dịch
của
Chi
cục
Nuôi
trồng
thủy
sản
Bến
Tre
và
được
xét
nghiệm
sạch
bệnh
các
bệnh
nguy
hiểm
khác.
Mật
độ
và
kích
cỡ
giống
thả
nuôi
phù
hợp
với
quy
định
của
ngành
(tôm
chân
trắng
từ
40
-
50
con/m2,
cỡ
postlarvae
≥
12
mm;
tôm
sú
từ
20
-
25
con/m2,
cỡ
postlarvae
≥
15
mm).
Nếu
có
điều
kiện,
chủ
cơ
sở
tiến
hành
thu
mẫu
nước,
tôm
hoặc
giáp
xác
xét
nghiệm
kiểm
tra
bệnh
trước
khi
thả
nuôi
nhằm
phát
hiện
sớm
mối
nguy.
Đối
với
ao
tôm
đang
nuôi
Cần
quản
lý
chặt
chẽ
các
yếu
tố
môi
trường
nước
trong
ao
nuôi
như:
duy
trì
mực
nước
ao
nuôi
>
1,2
m;
pH
duy
trì
7,5
-
8,2
(kiểm
tra
2
lần/ngày,
vào
lúc
6
giờ
sáng
và
14
giờ
chiều);
độ
kiềm
ổn
định
120
-
160
mg/l
(định
kỳ
7
-
10
ngày
kiểm
tra/lần);
tăng
thời
gian
chạy
quạt
nước
để
đảm
bảo
oxy
hòa
tan
>
5
mg/l;
mật
độ
tảo
(định
kỳ
3
ngày
kiểm
tra/lần)
cần
điều
chỉnh
trong
ngưỡng
thích
hợp
nhất,
đặc
biệt
là
màu
nước
cần
giữ
ổn
định
thường
xuyên,
tránh
hiện
tượng
tảo
bị
nở
hoa
(độ
trong
duy
trì
ổn
định
từ
30
-
40
cm).
Bón
vôi
CaCO3
quanh
bờ
ao
trước
khi
trời
mưa;
sau
khi
mưa
nhiều
có
thể
tháo
bỏ
lớp
nước
tầng
mặt
hoặc
bón
vôi
ao
nuôi
để
tránh
sự
biến
động
độ
mặn
và
các
yếu
tố
thủy
lý,
thủy
hóa
trong
ao
nuôi.
Thực
hiện
tốt
các
biện
pháp
ngăn
chặn
nhằm
hạn
chế
sự
xâm
nhập
của
các
vật
chủ
trung
gian
mang
mầm
bệnh
như:
kiểm
soát
nguồn
nước
cấp,
rào
lưới,
đuổi
chim,
cò;
hạn
chế
người,
động
vật
vào
khu
vực
nuôi.
Quản
lý
chặt
chẽ
thức
ăn
trong
quá
trình
nuôi,
tránh
dư
thừa
thức
ăn;
định
kỳ
sử
dụng
chế
phẩm
sinh
học
để
giảm
ô
nhiễm
môi
trường
đáy
ao
và
hạn
chế
sự
phát
sinh
mầm
bệnh.
Kiểm
tra
sức
khỏe
tôm
hàng
ngày
như:
màu
sắc
tôm,
khả
năng
hoạt
động,
vỏ
tôm,
khối
gan
tụy,
ruột,
bộ
phụ,
lượng
thức
ăn.
Sau
1
tháng
thả
nuôi,
định
kỳ
1
-
2
tuần
kiểm
tra
mật
độ
vi
khuẩn
1
lần
nếu
vượt
ngưỡng
cho
phép
thì
tiến
hành
diệt
khuẩn,
sau
đó
cấy
vi
sinh
lại.
Bổ
sung
vitamin
C,
khoáng
chất,
men
tiêu
hóa
để
nâng
cao
sức
đề
kháng
cho
tôm.
Các
sản
phẩm
sử
dụng
phải
thuộc
danh
mục
thuốc
thú
y,
chế
phẩm
sinh
học,
vi
sinh
vật,
hóa
chất
dùng
trong
thú
y
thủy
sản
được
phép
lưu
hành
tại
Việt
Nam
theo
hướng
dẫn
của
nhà
sản
xuất
hoặc
cơ
quan
quản
lý
thú
y
thủy
sản
tại
địa
phương.
Tuyệt
đối
không
sử
dụng
kháng
sinh
cấm
để
phòng
và
trị
bệnh.
Tôm
giống
là
yếu
tố
quyết
định
hàng
đầu
Các
cơ
sở
nuôi
tôm
biển
nên
liên
kết
với
Hội
tôm
giống,
cơ
sở
sản
xuất
giống
trong
việc
cung
ứng
giống,
ký
kết
các
hợp
đồng
để
tăng
trách
nhiệm
của
người
sản
xuất
giống
và
chất
lượng
con
giống.
Đặc
biệt,
giống
khi
nhận
phải
có
“Giấy
chứng
nhận
kiểm
dịch
thủy
sản,
sản
phẩm
thủy
sản
vận
chuyển
trong
nước”
của
Chi
cục
Nuôi
trồng
thủy
sản
Bến
Tre
và
lưu
giữ
tại
cơ
sở
nuôi.
Đây
là
cơ
sở
làm
căn
cứ
để
được
hưởng
các
chính
sách
của
Nhà
nước
như:
hỗ
trợ
hóa
chất
tiêu
hủy
dịch
bệnh;
hỗ
trợ
con
giống
khôi
phục
sản
xuất.
Khi
tôm
nuôi
có
dấu
hiệu
bị
nhiễm
bệnh
hoặc
tôm
bệnh
chết
bất
thường,
phải
thực
hiện
ngay
các
biện
pháp
cách
ly,
tuyệt
đối
không
xả
thải
ra
kênh
rạch
và
khai
báo
ngay
cho
Ban
quản
lý
vùng
nuôi,
Phòng
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
các
huyện:
Ba
Tri,
Bình
Đại,
Thạnh
Phú,
Giồng
Trôm,
Mỏ
Cày
Nam
để
được
hướng
dẫn
cách
ly
xử
lý.
Theo
Báo
Đồng
Khởi