Dịch
bệnh
là
mối
đe
dọa
của
ngành
tôm,
trong
đó
nổi
bật
là
Hội
chứng
tôm
chết
sớm
(Early
Mortality
Syndrome
–
EMS);
hay
còn
được
gọi
là
bệnh
hoại
tử
gan
tụy
cấp
tính
(Acute
Hepatopancreatic
Necrosis
Disease
–
AHPND).
Nhiều
giải
pháp
được
đưa
ra
để
phòng
trị
bệnh
này
trong
đó
có
công
dụng
của
thảo
dược.
Chế
phẩm
thảo
dược
Herb-AllTM
Liver
của
Công
ty
TNHH
Thú
Y
Đông
Phương
(Eastvet)
đã
được
thử
nghiệm
tại
Khoa
Thủy
sản,
Trường
Đại
học
Cần
Thơ
để
đánh
giá
ảnh
hưởng
của
sản
phẩm
này
lên
hệ
miễn
dịch
của
tôm
thẻ
chân
trắng
(Litopenaeus
vannamei).
EMS/AHPND
Năm
2009
tại
châu
Á,
một
bệnh
mới
xuất
hiện
trên
tôm
được
gọi
là
Hội
chứng
tôm
chết
sớm
(Early
Mortality
Syndrome
–
EMS),
bệnh
gây
chết
cấp
tính
trong
giai
đoạn
30
–
40
ngày
đầu
trong
ao
ương,
không
biết
nguyên
nhân.
Sau
đó,
một
số
nguồn
tư
liệu
cho
thấy
bệnh
lý
nghiêm
trọng
ở
gan
tụy,
do
đó
căn
bệnh
này
được
gọi
là
bệnh
hoại
tử
gan
tụy
cấp
tính
(Acute
Hepatopancreatic
Necrosis
Disease
–
AHPND).
Nguyên
nhân
gây
bệnh
là
do
vi
khuẩn,
mầm
bệnh
là
một
chủng
Vibrio
parahaemolyticus
đặc
biệt,
có
khả
năng
sản
sinh
độc
tố
gây
chết
tế
bào
ở
gan
tụy.
Các
chủng
Vibrio
parahaemolyticus
chứa
một
plasmid
đặc
biệt
(DNA)
có
khả
năng
tạo
ra
ngoại
độc
tố
gây
chết
tế
bào
trong
gan
tụy
của
tôm.
Vì
hầu
hết
các
bệnh
lý
được
gây
ra
bởi
các
độc
tố
này
chứ
không
phải
do
chính
vi
khuẩn,
nên
AHPND
tiến
triển
nhanh
hơn
là
một
bệnh
nhiễm
khuẩn
Vibrio
cấp
tính
điển
hình.
Đây
là
nguyên
nhân
làm
tôm
chết
sớm
trong
vòng
30
ngày
đầu
tiên
sau
khi
thả,
tỷ
lệ
tôm
chết
có
thể
lên
tới
trên
70%.
Gan
tụy,
tuyến
tiêu
hóa
hoặc
tuyến
giữa
ruột,
là
những
cơ
quan
của
đường
tiêu
hóa
của
động
vật
chân
đốt;
thực
hiện
các
chức
năng
mà
ở
động
vật
có
vú
được
cung
cấp
riêng
biệt
bởi
gan
và
tuyến
tụy,
bao
gồm
sản
xuất
các
enzyme
tiêu
hóa
và
hấp
thụ
thức
ăn
được
tiêu
hóa.
Gan
tụy
là
một
trung
tâm
chuyển
hóa
lipid
và
lưu
trữ
lipid.
Một
khi,
chăm
sóc
tốt
sức
khỏe
của
gan
tụy
chúng
ta
có
thể
đạt
được
các
mục
tiêu
như:
sức
khỏe
tôm
tốt
hơn,
tôm
ăn
nhiều
hơn,
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
cải
thiện,
tăng
trọng
nhanh,
giảm
hao
hụt.
Tác
dụng
cộng
hưởng
từ
HERB-ALLTM
LIVER
Herb-AllTM
là
một
phức
hợp
sinh
học
của
chất
chuyển
hóa
thứ
cấp
từ
thực
vật.
Tương
tác
giữa
thành
phần
chính
và
các
thành
phần
thứ
cấp
tổ
hợp
từ
thực
vật
mang
đến
những
tác
dụng
mong
đợi
ở
các
mức
độ
phức
hợp
sinh
học
khác
nhau.
Chế
phẩm
thảo
dược
Herb-AllTM
Liver
là
một
hỗn
hợp
các
thảo
dược
chọn
lọc,
gồm
một
số
thành
phần
chính
như
Xuyên
Tâm
Liên,
Dây
Thần
Thông
(Dây
cóc),
Cỏ
xước…
được
phối
trộn
theo
tỷ
lệ
thích
hợp,
có
tác
dụng
hỗ
trợ
chức
năng
gan
cho
vật
nuôi
như:
Cung
cấp
nhóm
chức
Methyl:
Choline,
Betaine,
Methionine;
chống
ôxy
hóa:
Andrographo-
lides,
Gallic
Acid
và
Flavonoids;
Vitamins:
Biotine,
Vitamine
B-complex.
Herb-All
Liver
công
dụng
như
thế
nào?
–
Các
hoạt
chất
thực
vật
thứ
cấp
của
Herb-AllTM
LIVER
hỗ
trợ
chức
năng
gan
tụy
trong
việc
chuyển
hóa
thức
ăn;
–
Herb-AllTM
LIVER
góp
phần
cải
thiện
sức
khỏe
của
gan
tụy;
–
Herb-AllTM
LIVER
hỗ
trợ
giải
độc
gan
tụy
(đặc
biệt
là
trong
quá
trình
điều
trị
thuốc);
–
Herb-AllTM
LIVER
hỗ
trợ
sức
khỏe
đường
ruột
bằng
cách
bảo
vệ
gan
tụy
khỏi
độc
tố
(như
độc
tố
từ
Vibrio
parahaemolyticus);
–
Herb-AllTM
LIVER
dễ
dàng
hấp
thụ
và
không
tương
tác
với
vitamin
và
các
thành
phần
thức
ăn
khác
hoặc
các
chất
phụ
gia
thường
được
sử
dụng
trong
thức
ăn
chăn
nuôi;
–
Herb-AllTM
LIVER
tương
thích
với
xử
lý
nhiệt
độ
cao
ở
dạng
viên
hoặc
ép
đùn;
–
Herb-AllTM
LIVER
không
ăn
mòn
và
không
hút
ẩm
và
không
có
mùi
khó
chịu.
Thử
nghiệm
trong
khẩu
phần
ăn
của
TTCT
Xuất
phát
từ
những
lợi
ích
trên,
Công
ty
TNHH
Thú
Y
Đông
Phương
(Eastvet)
đã
tiến
hành
thử
nghiệm
tại
Khoa
Thủy
sản,
Trường
Đại
học
Cần
Thơ
khi
bổ
sung
vào
khẩu
phần
thức
ăn
của
tôm
thẻ
chân
trắng
(Litopenaeus
vannamei)
ở
điều
kiện
Việt
Nam.
Nhằm,
đánh
giá
ảnh
hưởng
của
chế
phẩm
thảo
dược
Herb-All
Liver
lên
hệ
miễn
dịch
của
tôm
thẻ
chân
trắng.
Thử
nghiệm
được
bố
trí
6
nghiệm
thức,
từ
ngày
1
–
44,
tôm
được
cho
ăn
bằng
thức
ăn
viên
có
bổ
sung
sản
phẩm
thử
nghiệm
chi
tiết
trong
Bảng
1.
Trong
đó,
giai
đoạn
1
–
30
ngày
nuôi
trong
3
bể
150
lít,
với
60
con/bể,
cho
ăn
3
loại
cám
thử
nghiệm;
đến
ngày
30,
tôm
từ
mỗi
mỗi
nghiệm
thức
được
chia
vào
3
bể
nhựa
(thể
tích
30
lít,
30
con/bể).
Các
nhóm
tôm
được
gây
cảm
nhiễm
AHPND
bằng
phương
pháp
ngâm
vào
ngày
30
(nhóm
4,
5
và
6).
Sau
cảm
nhiễm,
tôm
được
cho
ăn
theo
nhu
cầu
và
từng
loại
cám
thử
nghiệm
trước
đó.
Việc
nhiễm
chéo
vi
khuẩn
giữa
các
bể
được
ngăn
chặn
bằng
cách
che
phủ
các
bể
và
sử
dụng
dụng
cụ
chăn
nuôi
riêng
cho
từng
bể.
Chất
lượng
nước
được
theo
dõi
hàng
ngày,
đáy
bể
được
hút
cặn
và
nước
trong
bể
được
thay
khoảng
20%
mỗi
ngày
trong
suốt
quá
trình
thử
nghiệm
(trừ
2
ngày
sau
cảm
nhiễm).
Những
mẫu
huyết
tương
được
thu
từ
10
con
tôm
trước
khi
bắt
đầu
cho
ăn
sản
phẩm
thử
nghiệm
và
3
tôm/bể
ở
tất
cả
lần
lặp
lại
và
tất
cả
nghiệm
thức
vào
ngày
14,
28,
35,
44
sau
khi
cho
ăn
thức
ăn
thử
nghiệm
để
phân
tích
tổng
tế
bào
máu,
các
loại
tế
bào
máu
và
hoạt
động
PO.
Kết
quả
(*)
biểu
thị
không
có
sự
khác
biệt
đáng
kể
về
tỷ
lệ
chết
tích
lũy
giữa
nhóm
đối
chứng
và
nhóm
thử
nghiệm
bằng
cách
sử
dụng
t-test
(P
<0,05).
(a,
b
&
c)
biểu
thị
sự
khác
biệt
đáng
kể
về
tỷ
lệ
chết
tích
lũy
giữa
các
nghiệm
thức
bằng
cách
sử
dụng
t-test
(p
<0,05).
Tỷ
lệ
chết
trong
tất
cả
các
phương
pháp
điều
trị
dao
động
từ
2,0
±
0,0%
đến
3,3
±
1,1%,
thường
xảy
ra
trong
thử
nghiệm
thực
nghiệm.
Tôm
bị
chết
trong
giai
đoạn
này
là
do
tôm
lột
xác.
Không
có
sự
khác
biệt
về
tỷ
lệ
tử
vong
tích
lũy
(P>
0,05)
giữa
nhóm
được
cho
ăn
bằng
thức
ăn
đối
chứng
và
nhóm
được
nuôi
bằng
Herb-All
LIVER
từ
ngày
1
–
29.
Tỷ
lệ
chết
tích
lũy
sau
14
ngày
cảm
nhiễm
của
TM5
là
46,7
±
8,8%
(thức
ăn
thử
nghiệm
1
và
cảm
nhiễm)
không
khác
biệt
đáng
kể
so
tỷ
lệ
chết
tích
lũy
của
TM4
(53,3%)
(thức
ăn
đối
chứng
và
cảm
nhiễm)
(P>
0,05).
Tỷ
lệ
chết
tích
lũy
thấp
nhất
(%)
sau
14
ngày
cảm
nhiễm
là
43,3
±
3,3
trong
TM6
(thức
ăn
thử
nghiệm
2
và
cảm
nhiễm
với
Vibrio
parahaemolyticus)
thấp
hơn
đáng
kể
so
tỷ
lệ
chết
tích
lũy
của
TM4
(53,3%)
(thức
ăn
đối
và
gây
cảm
nhiễm)
(p
<
0,05).
Do
đó,
thức
ăn
thử
nghiệm
2
(cho
ăn
5
kg
Herb-All
LIVER
mỗi
tấn
thức
ăn
liên
tục)
sẽ
phù
hợp
để
áp
dụng
để
giảm
tỷ
lệ
chết
do
AHPND
do
Vibrio
parahemolyticus
gây
ra
ở
tôm
thẻ
chân
trắng.
Thời
điểm
bắt
đầu
có
dấu
hiệu
lâm
sàng
Tôm
cảm
nhiễm
hiển
thị
các
dấu
hiệu
lâm
sàng
(như
chán
ăn,
bơi
lờ
đờ,
màu
nhạt
của
cơ
thể
và
gan
tụy)
bắt
đầu
từ
9
–
10
giờ
sau
cảm
nhiễm.
Các
dấu
hiệu
tổng
thể
điển
hình
của
AHPND
do
Vibrio
parahaemolyticus
gây
ra
(ruột
có
thức
ăn
không
liên
tục
hoặc
ruột
rỗng
và
HP
trở
nên
sẫm
màu
hoặc
nhạt
màu)
sau
một
cảm
nhiễm
sau
2
ngày
(Hình
1).
Hình
1.
Dấu
hiệu
bệnh
lý
của
tôm
thử
nghiệm
ở
cảm
nhiễm
ngâm
sau
48
giờ
với
Vibrio
parahaemolyticus
gây
AHPND.
A/a:
TM1;
B/b:
TM2;
C/c:
TM3;
D/d:
TM4;
E/e:
TM5;
F/f:
TM6.
Lưu
ý,
sự
đổi
màu
sắc
của
cơ
thể,
HP
nhạt
màu,
kích
thước
của
HP
và
sự
hiện
diện/vắng
của
thức
ăn
trong
ruột
tôm
ở
các
nhóm
cảm
nhiễm
(TM4,
TM5
và
TM6).
Bắt
đầu
từ
12
–
14
giờ
sau
cảm
nhiễm
với
Vibrio
parahaemolyticus
gây
AHPND,
tỷ
lệ
chết
đầu
tiên
được
quan
sát
thấy
trong
TM4
(kiểm
soát
thức
ăn
và
cảm
nhiễm).
Sau
24
giờ
cảm
nhiễm,
tỷ
lệ
chết
đã
được
quan
sát
trong
TM5
(được
nuôi
bằng
thử
nghiệm
1
và
cảm
nhiễm)
và
TM6
(được
nuôi
bằng
thử
nghiệm
2
và
cảm
nhiễm).
(*);
(**)
và
(***)
biểu
thị
sự
gia
tăng
đáng
kể
trọng
lượng
cơ
thể
trung
bình
tại
các
thời
điểm
lấy
mẫu
khác
nhau
bằng
cách
sử
dụng
t-test
(P
<0,05).
Lượng
thức
ăn
ăn
vào
từ
ngày
1
–
29
trong
tất
cả
các
nghiệm
thức
dao
động
từ
1.254,4
đến
1.289,2
g
(lượng
thức
ăn
chiếm
khoảng
6%
trọng
lượng
cơ
thể
của
tôm).
Từ
ngày
31
–
44,
tôm
trong
các
nghiệm
thức
không
cảm
nhiễm
được
cho
ăn
bình
thường
nhưng
tôm
trong
các
nghiệm
thức
bị
cảm
nhiễm
đã
giảm
mạnh
lượng
thức
ăn
từ
167,6
đến
618,8
g.
Các
bể
nuôi
tôm
trước
khi
cảm
nhiễm
(ngày
1
–
29)
Các
bể
tôm
sau
khi
cảm
nhiễm
(ngày
30
–
45)
Các
chỉ
tiêu
miễn
dịch
(a,
b
&
c)
biểu
thị
sự
khác
biệt
đáng
kể
về
các
thông
số
miễn
dịch
giữa
các
nghiệm
thức
tại
cùng
một
thời
điểm
sử
dụng
phương
pháp
phân
tích
One
way
ANOVA
(p
<0,05).
H9
Tôm
kết
thúc
thử
nghiệm
giữa
các
nghiệm
thức
Hoạt
động
phenoloxidase
của
crustacean
được
kích
hoạt
bởi
bạch
cầu
hạt,
do
đó,
các
tế
bào
hạt
og
tăng
lên
được
theo
sau
bởi
sự
gia
tăng
hoạt
động
phenoloxidase.
H10
Ruột
tôm
kết
thúc
thử
nghiệm
giữa
các
nghiệm
thức
Có
thể
thấy
từ
dữ
liệu
của
các
chỉ
tiêu
miễn
dịch
khi
cho
ăn
Herb-All
LIVER
có
thể
duy
trì
tổng
số
lượng
tế
bào
máu
sau
cảm
nhiễm
AHPND,
nó
cũng
duy
trì
các
hoạt
động
phenoloxidase,
do
đó
làm
tăng
tỷ
lệ
sống
của
tôm.
Vì
vậy,
Herb-All
LIVER
là
một
giải
pháp
tiềm
năng
trong
thức
ăn
cho
tôm
nhằm
bảo
vệ
tôm
phòng
chống
AHPND
hiệu
quả.
Kết
luận
Kết
quả
của
thử
nghiệm
này
cho
thấy,
việc
bổ
sung
Herb-All
LIVER
có
tác
dụng
có
lợi
để
tăng
cường
các
thông
số
miễn
dịch
(như
tăng
tế
bào
hạt
và
hoạt
động
phenoloxidase)
và
giảm
tỷ
lệ
tử
vong
do
bệnh
hoại
tử
gan
tụy
cấp
tính
do
Vibrio
parahemolyticus
gây
ra
ở
tôm
thẻ
chân
trắng.
Liều
tốt
nhất
là
5
kg
Herb-All
LIVER
cho
mỗi
tấn
thức
ăn.