Một
phương
pháp
mới
có
thể
cải
thiện
FCR
khi
nuôi
tôm
trong
hệ
thống
biofloc
dựa
trên
nhiệt
độ
nước
và
tăng
trưởng
hàng
tuần
của
tôm.
Tôm
thẻ
chân
trắng
(Litopenaeus
vannamei)
có
tiềm
năng
tăng
trưởng
tốt
nhất
từ
28
-
30
độ
C
trong
các
hệ
thống
nuôi
thông
thường.
Sự
tăng
trưởng
này
đạt
được
không
chỉ
bởi
một
phạm
vi
nhiệt
độ
thích
hợp
mà
còn
tổng
của
nhiều
yếu
tố
bao
gồm
các
thông
số
nước
thích
hợp
và
quản
lý
cho
ăn
hiệu
quả.
Quản
lý
cho
ăn
có
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
đảm
bảo
hiệu
suất
tốt
nhất
(hệ
thống
biofloc
(BFT)
là
sự
giảm
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn).
Thức
ăn
là
nguyên
liệu
đầu
vào
đắt
nhất
trong
sản
xuất
tôm,
nên
việc
quản
lý
thức
ăn
và
phương
pháp
cho
ăn
hiệu
quả
góp
phần
đem
lại
sản
lượng
và
lợi
nhuận
cao
nhất.
Có
nhiều
quy
trình
cho
ăn
có
thể
được
sử
dụng
làm
cơ
sở
khi
bắt
đầu
một
vụ
nuôi.
Trong
số
các
nghiên
cứu
liên
đến
thực
hành
nuôi
tôm
truyền
thống,
Jory
và
cộng
sự
2001
và
Tacon
và
cộng
sự
2002
đã
đề
xuất
chế
độ
cho
ăn
dựa
trên
nhiệt
độ
nước,
trong
khi
Garza
de
Yta
cùng
cộng
sự
2004
lại
có
quy
trình
cho
ăn
dựa
trên
sự
tăng
trưởng
dự
kiến
hàng
tuần
của
tôm.
Ảnh
hưởng
của
nhiệt
độ
đến
FCR
ở
tôm
thẻ
nuôi
trong
hệ
thống
biofloc
Đây
là
báo
cáo
về
nghiên
cứu
của
Geraldo
Fóes
và
cộng
sự
2021
về
các
điều
chỉnh
đối
với
quản
lý
cho
ăn
trong
hệ
thống
BFT
nhằm
cải
thiện
FCR.
Thử
nghiệm
bao
gồm
5
nghiệm
thức
với
5
nhiệt
độ
nước
nuôi
tôm
khác
nhau
(20,
23,
26,
29
và
32oC).
Thí
nghiệm
được
thực
hiện
trong
những
tháng
mùa
đông
để
đảm
bảo
duy
trì
nhiệt
độ
nước
ở
mức
cần
thiết.
Mỗi
nghiệm
thức
được
thử
nghiệm
ba
lần
trong
các
bể
300
lít.
Tôm
có
trọng
lượng
trung
bình
ban
đầu
là
1,2
gam
được
thả
với
mật
độ
300
con/m3.
Thí
nghiệm
kéo
dài
10
tuần,
và
trong
thời
gian
đó,
nhiệt
độ
nước
được
duy
trì
bằng
máy
sưởi
300
watt
và
được
theo
dõi
hàng
ngày.
Các
thông
số
nước
như:
Oxy
hòa
tan,
pH
và
độ
mặn
cũng
được
theo
dõi
hàng
ngày,
trong
khi
amoniac,
nitrit,
nitrat
và
kiềm
được
theo
dõi
2
lần/tuần.
Biofloc
trưởng
thành
từ
một
bể
khác
được
cấy
vào
các
bể
thí
nghiệm
khi
bắt
đầu
với
tỷ
lệ
10%
tổng
thể
tích
bể.
Tỷ
lệ
cacbon:
nitơ
(C:
N)
được
sử
dụng
để
duy
trì
biofloc
là
15:
1,
và
khi
cần,
mật
đường
(36%
C)
và
vôi
ngậm
nước
được
sử
dụng
để
giữ
độ
kiềm
ở
mức
thích
hợp.
Hệ
thống
thí
nghiệm
bao
gồm
15
máy
sục
khí
300
lít
sử
dụng
các
ống
có
lỗ
siêu
nhỏ
và
máy
sưởi
300
watt
để
duy
trì
nhiệt
độ
thí
nghiệm.
Tỷ
lệ
cho
ăn
ban
đầu
được
tính
toán
theo
khuyến
nghị
của
Jory
và
cộng
sự
năm
2001
là
cho
ăn
dựa
trên
nhiệt
độ
nước
và
được
điều
chỉnh
hàng
ngày
thông
qua
việc
sử
dụng
khay
ăn.
Thức
ăn
cho
tôm
thương
mại
được
sử
dụng
có
chứa
38%
protein
thô.
Hàng
ngày,
thức
ăn
thừa
được
thu
thập
và
sau
đó
sấy
khô
để
tính
toán
chính
xác
FCR.
Hàng
tuần,
30
con
tôm
được
lấy
từ
mỗi
bể
và
cân
để
ước
tính
tốc
độ
tăng
trưởng
hàng
tuần.
Vào
cuối
giai
đoạn
thí
nghiệm,
tất
cả
các
con
tôm
còn
lại
được
cân
để
có
trọng
lượng
cuối
cùng,
tỷ
lệ
sống
và
năng
suất
cho
mỗi
công
thức
thí
nghiệm.
Kết
quả
của
Geraldo
Fóes
và
cộng
sự
2021
đã
cho
thấy
các
số
thông
số
chất
lượng
nước
-
oxy
hòa
tan,
độ
kiềm,
amoniac,
nitrat
và
nitrit
-
có
sự
khác
biệt
đáng
kể
giữa
các
nghiệm
thức
thí
nghiệm,
do
nhiệt
độ
khác
nhau.
Mặc
dù
vậy,
không
có
thông
số
chất
lượng
nước
nào
đạt
đến
giá
trị
có
thể
ảnh
hưởng
đến
sự
tăng
trưởng
của
tôm
con
ngoại
trừ
nhiệt
độ
nước.
Hình
1:
Tỷ
lệ
phần
trăm
tỷ
lệ
sống
(trục
Y,
bên
trái)
và
tỷ
lệ
chuyển
đổi
thức
ăn
(trục
Y,
bên
phải)
của
tôm
được
nuôi
thử
nghiệm
ở
các
nhiệt
độ
nước
khác
nhau
trong
hệ
thống
BFT.
Tỷ
lệ
sống
sót
đối
với
5
nhóm
nhiệt
độ
dao
động
từ
khoảng
80
–
97%,
và
tỷ
lệ
chuyển
đổi
thức
ăn
(FCR)
dao
động
trong
khoảng
1,25
-
2.
Tỉ
lệ
sống
và
FCR
tốt
nhất
được
quan
sát
thấy
ở
hai
nhóm
nhiệt
độ
thấp
nhất,
20
và
23
độ
C
(Hình
1).
Hình
2:
So
sánh
giữa
tăng
trưởng
hàng
tuần
(gam)
(trục
Y,
bên
trái)
và
tăng
trưởng
cuối
cùng
(gam)
(trục
Y,
bên
phải)
trong
nhiệt
độ
thí
nghiệm.
Các
chữ
cái
chỉ
ra
sự
khác
biệt
đáng
kể
giữa
các
phương
pháp
điều
trị.
Tôm
nuôi
ở
nhiệt
độ
29
(tốt
nhất)
và
32
độ
C
cho
thấy
mức
tăng
trưởng
cuối
cùng
đáng
kể
khi
so
sánh
với
các
nghiệm
thức
ở
26,
23
và
20
độ
C,
như
mong
đợi
(Hình
2).
Điều
thú
vị
trong
những
kết
quả
này
là
mức
tăng
trưởng
trung
bình
hàng
tuần
tương
ứng
với
cùng
một
mô
hình
trọng
lượng
cuối
cùng
trong
điều
kiện
nhiệt
độ
không
đổi.
Ngoài
ra,
nhiệt
độ
hạn
chế
sự
tăng
trưởng
tối
đa
mà
tôm
có
thể
đạt
được
ở
mỗi
nghiệm
thức
thử
nghiệm.
Vì
vậy,
điều
quan
trọng
là
phải
tạo
ra
một
quy
trình
cho
ăn
phù
hợp
với
khả
năng
của
tôm
ở
các
nhiệt
độ
nuôi
khác
nhau.
Ví
dụ,
khi
nuôi
tôm
ở
26
độ
C
trong
thí
nghiệm,
tôm
đạt
mức
tăng
trưởng
trung
bình
hàng
tuần
là
0,7
gam
và
việc
cung
cấp
cho
vật
nuôi
thêm
thức
ăn
vượt
quá
lượng
đã
sử
dụng
sẽ
chỉ
dẫn
đến
lãng
phí
thức
ăn,
giảm
chất
lượng
nước
và
thiệt
hại
về
kinh
tế.
Cải
thiện
FCR
nuôi
tôm
thẻ
trong
hệ
thống
biofloc
Dựa
trên
kết
quả
của
nghiên
cứu
trên,
các
nhà
khoa
học
đề
xuất
sửa
đổi
các
tính
toán
cho
ăn
do
Garza
de
Yta
và
cộng
sự
đề
xuất
năm
2004.
Đó
là
cách
tiếp
cận
sử
dụng
mức
tăng
trưởng
dự
kiến
hàng
tuần
hiệu
chỉnh
dựa
trên
nhiệt
độ
nước
nuôi
tôm
trong
hệ
thống
biofloc.
Nhiệt
độ
nước
( oC) |
Tăng
trưởng
hàng
tuần
thực
tế
(g) |
Tăng
trưởng
hàng
tuần
đề
xuất
(g) |
Công
thức
tính lượng
thức
ăn
hằng
ngày |
20 |
0,22 |
0,25 |
DFO
=
(N
*
(WGTB
0,25)
*
FCR)
/
7 |
23 |
0,56 |
0,50 |
DFO
=
(N
*
(WGTB
0,5)
*
FCR)
/
7 |
26 |
0,68 |
0,75 |
DFO
=
(N
*
(WGTB
0,75)
*
FCR)
/
7 |
29 |
1,00 |
1,00 |
DFO
=
(N
*
(WG)
*
FCR)
/
7 |
32 |
0,91 |
0,90 |
DFO
=
(N
*
(WGTB
0,9)
*
FCR)
/
7 |
Bảng
1.
Công
thức
đề
xuất,
sửa
đổi
từ
Garza
de
Yta
et
al.
(2004),
để
cải
thiện
quy
trình
cho
tôm
ăn
với
các
nhiệt
độ
nước
khác
nhau
trong
hệ
thống
biofloc.
Cột
3
là
các
giá
trị
tăng
trọng
hằng
tuần
(WG)
được
đề
xuất
trong
công
thức
tính
để
thuận
lợi
trong
việc
quản
lý
cho
ăn.
DFO
=
Nguồn
cấp
dữ
liệu
hàng
ngày
được
cung
cấp;
N
=
Số
lượng
sinh
vật;
WGTB
=
Tăng
trọng
theo
trên
nhiệt
độ;
WG
=
Tăng
trưởng
hàng
tuần;
FCR:
Tỷ
lệ
chuyển
đổi
thức
ăn;
7
=
7
ngày
trong
tuần.
Hệ
số
hiệu
chỉnh
được
đề
xuất
để
cải
thiện
quy
trình
cho
ăn
của
tôm
xem
xét
nhiệt
độ
nước
trong
hệ
thống
sản
xuất
biofloc
(BFT)
sẽ
tối
đa
hóa
hiệu
quả
sản
xuất
tôm
trong
hệ
thống
BFT.
Có
rất
nhiều
cơ
hội
để
cải
thiện
quy
trình
cho
ăn
của
tôm
nuôi
trong
hệ
thống
BFT,
đặc
biệt
là
ở
những
vùng
có
nhiệt
độ
nước
dao
động
đáng
kể.
Nghiên
cứu
trên
cho
thấy
tôm
nuôi
ở
32
độ
C
cho
thấy
hiệu
quả
tăng
trưởng
giảm
và
do
đó
các
nhà
khoa
học
khuyến
nghị
nhiệt
độ
nuôi
thấp
hơn
trong
phạm
vi
thí
nghiệm
đã
đánh
giá.
Công
thức
mới
để
tính
lượng
thức
ăn
hằng
ngày
này
được
điều
chỉnh
khi
xem
xét
nhiệt
độ
nước
nuôi
trong
hệ
thống
biofloc
(BFT)
và
trọng
lượng
tăng
trưởng
hàng
tuần
sẽ
góp
phần
tối
đa
hóa
hiệu
quả
cho
ăn
đồng
thời
giảm
thiểu
thiệt
hại
kinh
tế
liên
quan
đến
việc
cho
ăn.
Nguồn: Geraldo
Fóes,
Ph.D.
Dr.
Wilson
Wasielesky
Junior
Italo
Marchetti
Victor
Rosas,
Ph.D
(2021),
Assessing
the
effect
of
temperature
on
FCR
in
Pacific
white
shrimp
cultured
in
biofloc
systems,
Global
Seafood,
Health
&
Welfare,
9/9/2021.