Khi
nguồn
cung
bột
cá,
dầu
cá
dần
cạn
kiệt,
nhiều
sinh
vật
biển
khác
có
tiềm
năng
trở
thành
nguyên
liệu
thức
ăn
thủy
sản
cần
thiết
thay
thế.
Động
vật
biển
Có
ít
nhất
3
động
vật
biển
được
đánh
giá
là
nguồn
protein
tiềm
năng
trong
thức
ăn
thủy
sản:
vẹm,
Artemia
và
giáp
xác
chân
2
loại.
Đây
đều
là
nhóm
sinh
vật
ở
bậc
dinh
dưỡng
thấp
và
hấp
thu
chất
dinh
dưỡng
từ
vi
tảo,
hoặc
các
hạt
vật
chất
hữu
cơ
trong
môi
trường
biển.
Giáp
xác
chân
2
loại
Vẹm
xanh
và
vẹm
lục
tăng
trưởng
nhanh
trong
môi
trường
giàu
dinh
dưỡng
và
hoạt
động
như
những
tác
nhân
điều
chỉnh
sinh
học,
biến
đổi
chất
dinh
dưỡng
trong
chất
thải
thành
protein.
Vẹm
chứa
hàm
lượng
protein
cao
(50
–
70%
khối
lượng
khô
–
DW)
và
lipid
(5
–
16%
DW),
với
lượng
axit
amin
và
axit
béo
tương
đương
bột
cá.
Theo
nhiều
nghiên
cứu,
vẹm
là
nguồn
protein
tiềm
năng
trong
thức
ăn
thủy
sản
với
lượng
bổ
sung
tối
đa
25%.
Ngoài
ra,
vẹm
đóng
một
số
vai
trò
quan
trọng
trong
cố
định
carbon
và
giảm
hiện
tượng
phú
dưỡng.
Ấu
trùng
Artemia
(nauplius)
là
thức
ăn
sống
quan
trọng,
cho
hầu
hết
các
trại
sản
xuất
giống
thủy
sản.
Nguồn
cung
Artemia
nauplius
phụ
thuộc
vào
trứng
Artemia
khai
thác
trong
tự
nhiên,
đã
thúc
đẩy
các
nỗ
lực
nuôi
Artemia
để
sản
xuất
trứng.
Sử
dụng
Artemia
trưởng
thành
làm
thức
ăn,
cũng
bắt
đầu
thu
hút
nhiều
sự
chú
ý.
Nuôi
Artemia
có
thể
cho
sản
lượng
tương
đối
cao
(2
tấn/ha/vụ)
trong
ao
nước
nông,
bằng
thức
ăn
tận
dụng
từ
phụ
phế
phẩm.
Hàm
lượng
protein
trong
sinh
khối
Artemia
tương
đối
cao,
khoảng
51-
60%
DW
với
lượng
lipid
5
–
10%
DW.
Giáp
xác
chân
2
loại
lớn
rất
nhanh
trong
môi
trường
giàu
dinh
dưỡng.
Theo
một
nghiên
cứu
gần
đây,
giáp
xác
chân
2
loại
nuôi
bằng
vi
tảo
và
phân
bò,
có
thể
được
sử
dụng
làm
thức
ăn
duy
nhất
cho
ấu
trùng
TTCT
Thái
Bình
Dương.
Rong
biển
Đã
có
rất
nhiều
nghiên
cứu
về
một
số
loài
rong
biển
làm
thức
ăn
thô,
phụ
gia
trong
hợp
chất
hoạt
tính
sinh
học
như:
flavonoid,
prebiotic,
and
carotenoid,
hoặc
như
nguồn
dinh
dưỡng
đa
lượng
và
vi
lượng.
Rong
biển
còn
là
chất
hấp
thụ
sinh
học
hiệu
quả
các
chất
dinh
dưỡng
trong
môi
trường
xung
quanh.
Rong
biển
Ulva
pertusa
Các
loài
rong
biển
thuộc
chi
Ulva spp.có
tiềm
năng
nhất,
để
trở
thành
nguyên
liệu
thức
ăn
thủy
sản
và
thực
phẩm
chức
năng.
Nhờ
khả
năng
loại
bỏ
ammonia
nitơ
(89%)
và
phosphate
(44%),
U.
pertusa còn
là
một
cỗ
máy
cải
tạo
môi
trường
trong
ao
nuôi
tôm,
hoặc
cá
thâm
canh
ở
vùng
ven
biển,
hoặc
nuôi
cấy
trong
các
hệ
thống
nuôi
thủy
sản
đa
loài.
Hàm
lượng
protein
của
Ulva spp
lên
đến
32%
DW
với
lượng
lipid
<2%
DW.
Nhiều
loài
rong
này
đã
được
nghiên
cứu
như
nguyên
liệu
thức
ăn,
cho
một
số
đối
tượng
NTTS
với
tỷ
lệ
bổ
sung
tối
đa
25%.
Rong
câu
(Gracilaria sp.)
được
trồng
phổ
biến
nhất
để
sản
xuất
thạch
agar,
với
lượng
protein
lên
tới
18,9%
DW,
lipid
<1%
DW.
Tỷ
lệ
tiêu
hóa
protein
của
Gracilaria
vermiculophylla khoảng
87,8%
và
51,4%
lần
lượt
ở
cá
hồi
vân
và
rô
phi
Nile.
Sử
dụng
Gracilaria
spp
trong
thức
ăn
thủy
sản,
được
thử
nghiệm
trên
nhiều
đối
tượng
NTTS,
với
tỷ
lệ
bổ
sung
cao
nhất
trên
cá
chẽm
châu
Âu
là
25%.
Vi
sinh
vật
Vi
sinh
vật
cũng
có
tiềm
năng
làm
thức
ăn
như
vi
tảo,
nấm
men,
vi
khuẩn
và
tảo
lam.
Vi
tảo
chứa
nhiều
chất
dinh
dưỡng
thiết
yếu
như:
axit
amin,
axit
béo,
vitamin,
và
hợp
chất
mang
hoạt
tính
sinh
học
có
lợi
cho
vật
nuôi
và
con
người.
Trong
đó
có
nhiều
loại
tiềm
năng
làm
thức
ăn
thủy
sản
gồm:
Nannochloropsis spp.,
Chlorella spp., Schizochytrium spp.,
Tetraselmis spp.,
và
Isochrysis
spp.
Riêng
Nannochloropsis spp.
là
nguồn
dưỡng
chất
giàu
axit
béo
omega-3
không
bão
hòa
(HUFAs)
cho
sản
lượng
cao
(33,6
–
84
tấn/ha/năm).
Vi
tảo
Tảo
Spirulina
spp.
cho
sản
lượng
cao
(20
–
90
tấn/ha/năm)
và
được
sử
dụng
làm
thực
phẩm
hoặc
phụ
gia
thức
ăn.
Với
khả
năng
loại
bỏ
phosphate
(99,97%)
và
nitơ
(81,10%)
trong
nước,
nhóm
tảo
này
còn
có
vai
trò
điều
chỉnh
sinh
học
trong
hệ
thống
NTTS
đa
loài.
Bột
biofloc
với
thành
phần
chính
là
hỗn
hợp
không
đồng
nhất
các
vi
khuẩn,
cũng
được
coi
là
thức
ăn
tiềm
năng.
Biofloc
được
sản
xuất
từ
nước
thải
ao
tôm
và
cá
với
lượng
protein
23
–
49%
DW,
có
thể
được
sử
dụng
làm
thức
ăn
cho
tôm
với
tỷ
lệ
bổ
sung
lên
đến
60%.
Dù
tiềm
năng,
mỗi
sinh
vật
biển
nói
trên
đều
có
hạn
chế
riêng
về
thành
phần
dinh
dưỡng,
năng
suất
phụ
thuộc
vào
môi
trường,
rủi
ro
nhiễm
độc
tố
và
kim
loại
nặng,
và
các
yếu
tố
kháng
dinh
dưỡng.
Do
đó,
muốn
tận
dụng
các
nguyên
liệu
này,
cần
phát
triển
công
nghệ
như
tiền
xử
lý,
tinh
chế
sinh
học
hoặc
lên
men…
Ngoài
ra,
cần
nghiên
cứu
thêm
về
yêu
cầu
dinh
dưỡng,
môi
trường
của
sinh
vật,
để
cải
thiện
năng
suất
và
chất
lượng
dinh
dưỡng.
Mi
Lan
Theo
InternationalFishFarming