Kim
ngạch
xuất
khẩu
thủy
sản
tháng
đầu
năm
2019
ước
đạt
644
triệu
USD,
giảm
3,9%
so
cùng
kỳ;
trong
đó,
2/3
mặt
hàng
chủ
lực
là
cá
tra
giảm
4,4%,
tôm
các
loại
giảm
2,2%.
Vì
vậy,
mục
tiêu
xuất
khẩu
10
tỷ
USD
đặt
ra
cho
ngành
thủy
sản
năm
nay
là
khá
cao
-
tăng
11%.
Nhà
nước
cần
nhanh
chóng
tháo
gỡ
Ông
Trương
Đình
Hòe,
Tổng
Thư
ký
Hiệp
hội
Chế
biến
và
xuất
khẩu
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
đã
nhận
dạng
3
khó
khăn
chính
của
ngành.
Thứ
nhất,
nguồn
nguyên
liệu.
Việc
kiểm
soát
nguồn
nguyên
liệu
chưa
thật
sự
tốt
(từ
hải
sản
khai
thác
đến
các
vùng
nuôi)
về
việc
tuân
thủ
quy
định
IUU
hay
dư
lượng
hóa
chất,
khiến
cho
các
nhà
máy
chế
biến
không
đủ
khả
năng
kiểm
soát
đồng
bộ
quá
trình
sản
xuất.
Trong
khi
đó,
do
phụ
thuộc
vào
việc
nhập
khẩu
nguyên
liệu
(bắp,
đậu
nành…)
để
chế
biến
thức
ăn
chăn
nuôi
nên
giá
thức
ăn
luôn
cao
hơn
các
nước,
ảnh
hưởng
đến
giá
thành
nguyên
liệu
thủy
sản
chế
biến,
giảm
sức
cạnh
tranh
so
với
Thái
Lan,
Ấn
Độ,
Ecuador…
Chưa
kể,
tác
động
tiêu
cực
của
biến
đổi
khí
hậu,
xâm
nhập
mặn,
dịch
bệnh
đến
ngành
thủy
sản
đã
làm
thiếu
hụt
nguyên
liệu,
phải
nhập
khẩu
để
đáp
ứng
nhu
cầu
chế
biến
của
các
nhà
máy.
Khó
khăn
thứ
hai
là
rào
cản
thị
trường.
Vấn
đề
“thẻ
vàng”
IUU
làm
gia
tăng
khó
khăn
trong
việc
xuất
khẩu
hải
sản
vào
thị
trường
EU.
Với
thị
trường
lớn
nhất
là
Mỹ,
các
vấn
đề
về
thuế
chống
bán
phá
giá
mặt
hàng
tôm
và
cá
tra,
chương
trình
thanh
tra
cá
da
trơn
và
mới
nhất
là
chương
trình
giám
sát
thủy
sản
nhập
khẩu
(SIMP)
đang
trở
thành
sức
ép
lớn
cho
hoạt
động
xuất
khẩu
thủy
sản
của
Việt
Nam.
Con
tôm
chủ
lực
chưa
phát
huy
hết
tiềm
lực
và
thế
mạnh. Ảnh:
CAO
THĂNG
Bên
cạnh
đó,
còn
có
những
khó
khăn
khác.
Ông
Trần
Văn
Dũng,
Giám
đốc
Công
ty
Basea
Foods
Bà
Rịa
-
Vũng
Tàu
(đơn
vị
đã
nhập
khẩu
nguyên
liệu
thủy
sản
về
chế
biến
nhiều
năm
qua),
cho
biết
có
những
mặt
hàng
nhà
máy
nhập
khẩu
hàng
năm
nhưng
việc
kiểm
soát
cũng
như
với
mặt
hàng
mới,
làm
thời
gian
vận
chuyển
về
nhà
máy
bị
kéo
dài.
Ông
Dũng
kiến
nghị,
việc
kiểm
tra
sau
thông
quan
nên
làm
dứt
điểm
hàng
năm
thay
vì
5
năm.
Việc
kéo
dài
như
vậy
sẽ
khiến
cho
doanh
nghiệp
rất
khó
khăn
trong
triển
khai
sản
xuất.
Ông
Trần
Văn
Lĩnh,
Chủ
tịch
HĐQT
Công
ty
cổ
phần
Thương
mại
và
Thủy
sản
Thuận
Phước
(Đà
Nẵng),
cho
rằng
có
những
vấn
đề
cần
Nhà
nước
vào
cuộc
mạnh
mẽ
hơn.
Đó
là
quy
hoạch
vùng
nuôi
rõ
ràng
giữa
các
địa
phương
và
có
chương
trình
thủy
lợi
cho
con
tôm.
Chính
sách
thuế,
về
nguyên
tắc,
nông
dân
và
ngư
dân
không
bị
thuế
VAT,
nhưng
về
dầu
(chiếm
50%
chi
phí
khai
thác)
phải
chịu
phí
môi
trường;
người
nuôi
tôm
dù
không
chịu
thuế
về
thức
ăn
chăn
nuôi
nhưng
vẫn
phải
chịu
phí
môi
trường
và
thuế
VTA
thuốc
thú
y,
kể
cả
phí
vận
chuyển.
Những
vướng
mắc
này,
Nhà
nước
cần
nhanh
chóng
tháo
gỡ
để
tạo
điều
kiện
cho
ngành
nông
nghiệp
tăng
trưởng
tốt.
Có
cơ
sở
để
tự
tin
Theo
ông
Ngô
Văn
Ích,
Chủ
tịch
VASEP,
năm
2018
ngành
thủy
sản
chỉ
tăng
trưởng
6%
là
tương
đối
thấp
so
với
thực
lực
của
ngành.
Bởi
lẽ,
con
tôm
-
mặt
hàng
chủ
lực
của
thủy
sản
-
chưa
phát
huy
hết
tiềm
lực
và
thế
mạnh
khi
xuất
khẩu
chỉ
đạt
3,6
tỷ
USD,
giảm
8%
so
với
năm
2017.
Ngành
thủy
sản
có
thể
đạt
tăng
trưởng
10%/năm
và
trong
điều
kiện
thuận
lợi
hoàn
toàn
có
thể
đạt
mức
tăng
trưởng
12%/năm.
Bộ
trưởng
Bộ
NN-PTNT
Nguyễn
Xuân
Cường
đánh
giá,
kế
hoạch
xuất
khẩu
năm
2019
của
ngành
thủy
sản
đạt
10
tỷ
USD
trở
lên,
tăng
11%
so
với
năm
2018
(gần
9
tỷ
USD)
là
cao,
nhưng
có
cơ
sở.
Đó
là
dựa
trên
tính
toán
về
tiềm
năng
và
thị
trường
3
nhóm
sản
phẩm
chính.
Mỗi
ngành
phải
thực
hiện
mục
tiêu
riêng
để
đảm
bảo
mục
tiêu
chung;
trong
đó,
đạt
4,2
tỷ
USD
là
“sứ
mệnh”
của
ngành
tôm.
Vốn
là
mặt
hàng
xuất
khẩu
chủ
lực,
việc
hoàn
thành
kế
hoạch
của
mặt
hàng
tôm
giúp
ngành
thủy
sản
tiến
gần
hơn
mục
tiêu
10
tỷ
USD.
Mặt
hàng
cá
tra
sau
thời
gian
khủng
hoảng,
năm
2018
giá
trị
xuất
khẩu
tăng
lên
2,2
tỷ
USD
so
với
1,8
tỷ
USD
năm
2017,
với
đà
thắng
lợi
này,
việc
củng
cố
ở
mức
2,3
tỷ
USD
là
khả
thi.
Với
quyết
tâm
gỡ
bỏ
“thẻ
vàng”
IUU
của
EU,
mặt
hàng
hải
sản
nhiều
khả
năng
đạt
3,5
tỷ
USD
khi
mà
năm
2018,
trong
thế
khó
về
IUU,
vẫn
tăng
trưởng
khá
tốt,
nhất
là
mặt
hàng
cá
ngừ
đại
dương.
Đưa
cá
từ
tàu
vào
nhà
máy
chế
biến
xuất
khẩu
tại
tỉnh
Bà
Rịa
-
Vũng
Tàu.
Ảnh:
CAO
THĂNG
Bộ
trưởng
Nguyễn
Xuân
Cường
cho
rằng,
trong
quá
trình
thực
hiện
mục
tiêu
trên
cần
có
sự
đồng
bộ
của
cả
chuỗi,
từ
khâu
đánh
bắt
đến
nuôi
trồng
thủy
sản,
áp
dụng
khoa
học
công
nghệ,
tuân
thủ
quy
trình
khai
thác
và
nuôi
để
có
nguyên
liệu
hợp
chuẩn.
Trong
chế
biến,
cần
đổi
mới
quy
trình
công
nghệ,
quản
trị,
tận
dụng
phụ
phế
phẩm
để
có
chuỗi
giá
trị
dài
ra,
với
giá
trị
tăng
lên
(như
tận
dụng
phụ
phẩm
cá
tra
chế
biến
ra
dầu
cá,
collagen,
da
chiên…
xuất
khẩu).
Tổ
chức
tốt
khâu
thị
trường.
Bên
cạnh
duy
trì
thị
trường
truyền
thống
như
Mỹ,
EU,
cần
mở
rộng
thị
trường
mới
như
Nhật
Bản,
Hàn
Quốc,
kể
cả
Trung
Quốc
-
thị
trường
gần,
rất
tiềm
năng,
nhưng
đang
trong
giai
đoạn
chấn
chỉnh
chất
lượng.
Đồng
thời
không
quên
thị
trường
nội
địa
với
96
triệu
dân
và
15
triệu
khách
du
lịch.
Theo SGGP