Trong
những
năm
gần
đây,
mặt
hàng
tôm
ngày
càng
chiếm
tỷ
trọng
lớn
trong
tổng
kim
ngạch
XK
thủy
sản
Việt
Nam.
Năm
2014,
XK
tôm
Việt
Nam
đạt
gần
4
tỷ
USD,
tăng
27%
so
với
năm
2013
và
chiếm
50%
giá
trị
XK
thủy
sản.
Kết
quả
XK
và
mức
tăng
trưởng
XK
khả
quan
trong
năm
2014
có
sự
đóng
góp
lớn
của
nguồn
tôm
nuôi
trong
nước
nhưng
có
tham
gia
không
nhỏ
của
tôm
nguyên
liệu
NK.
Năm
2014,
NK
tôm
nguyên
liệu
của
Việt
Nam
đạt
476
triệu
USD.
Ước
tính
doanh
thu
từ
tôm
nguyên
liệu
NK
đạt
700
triệu
USD,
chiếm
18%
tổng
doanh
thu
từ
tôm
XK
của
Việt
Nam
trong
năm
2014.
NK
tôm
nguyên
liệu
phục
vụ
chế
biến
XK
của
Việt
Nam
liên
tục
tăng
từ
50
triệu
USD
trong
năm
2010
lên
476
triệu
USD
năm
2014,
tăng
852%.
Chỉ
trong
quý
đầu
năm
2015,
NK
tôm
nguyên
liệu
vào
Việt
Nam
đã
đạt
106
triệu
USD.
Ấn
Độ
là
nhà
cung
cấp
tôm
nguyên
liệu
chính
cho
Việt
Nam
từ
năm
2011
đến
nay.
Năm
2014,
NK
tôm
nguyên
liệu
từ
Ấn
Độ
chiếm
68,8%
tổng
NK
tôm
của
Việt
Nam.
Bất
kỳ
một
DN
kinh
doanh
bất
cứ
hàng
hóa
nào
cũng
phải
tính
đến
bài
toán
cung
–
cầu
–
lợi
nhuận
và
các
DN
chế
biến
XK
tôm
cũng
không
nằm
ngoài
quy
luật
tất
yếu
này.
Có
những
thời
điểm,
DN
nhận
được
nhiều
đơn
đặt
hàng
từ
các
thị
trường
NK,
trong
khi
chưa
vào
vụ
thu
hoạch
ở
địa
phương
hoặc
kích
cỡ
tôm
mà
DN
cần
lại
không
sẵn
có,
hoặc
giá,
chất
lượng
không
đáp
ứng
nhu
cầu
của
các
DN.
Khi
đó,
các
DN
sẽ
phải
cân
nhắc
các
yếu
tố
cung
–
cầu
–
lợi
nhuận,
và
NK
nguyên
liệu
là
một
giải
pháp.
Thông
thường
các
nhà
sản
xuất
sẽ
tìm
kiếm
nguồn
nguyên
liệu
từ
những
nguồn
cung
đáp
ứng
được
yêu
cầu
của
họ
về
giá
cả
và
chất
lượng.
Trong
đó,
giá
nguyên
liệu
là
một
trong
những
yếu
tố
quan
trọng
quyết
định
lợi
nhuận
của
DN.
Ấn
Độ
được
các
DN
chọn
là
nhà
cung
cấp
tôm
số
1
do
nguồn
cung
ổn
định
với
giá
cả
phải
chăng,
đáp
ứng
được
yêu
cầu
về
kích
cỡ
và
chất
lượng.
Giá
thành
tôm
nuôi
ở
Việt
Nam
trong
mấy
năm
qua
cao
hơn
so
với
một
số
nước
đối
thủ,
đặc
biệt
là
Ấn
Độ.
Nên
nhiều
DN
đã
NK
tôm
nguyên
liệu
từ
những
khu
vực
này
để
có
thể
đáp
ứng
yêu
cầu
của
khách
hàng,
duy
trì
lợi
nhuận
và
năng
lực
cạnh
tranh
và
ổn
định
công
ăn
việc
làm
cho
người
lao
động.
Giá
thành
tôm
nuôi
của
Việt
Nam
cao
hơn
Ấn
Độ
do
những
bất
cập
về
quản
lý
thức
ăn,
con
giống,
thuốc
thú
y…Khâu
sản
xuất
và
phân
phối
các
yếu
tố
đầu
vào
này
chưa
tạo
điều
kiện
tốt
nhất
cho
người
nuôi.
Trong
khi
ở
Ấn
Độ,
nguyên
liệu
sản
xuất
thức
ăn
(đậu
nành,
ngô…)
hầu
như
tại
chỗ
trong
khi
Việt
Nam
chỉ
chủ
động
được
30%
nguồn
nguyên
liệu
này.
Ấn
Độ
NK
tôm
giống
từ
Mỹ
có
khả
năng
kháng
bệnh
cao.
Nước
này
cũng
mạnh
dạn
đầu
tư
vào
các
ao
nuôi,
cơ
sở
hạ
tầng
chế
biến
thức
ăn
và
hệ
thống
phân
phối
thức
ăn
thuận
lợi
nhất
cho
người
nuôi.
Trong
những
năm
gần
đây,
Ấn
Độ
đã
thực
hiện
được
một
cuộc
cách
mạnh
trong
ngành
tôm
với
số
lượng
tôm
giống
từ
7
tỷ
năm
2010
lên
20
tỷ
năm
2014,
tăng
186%;
công
suất
sản
xuất
thức
ăn
từ
390.000
tấn
năm
2010
lên
1,33
triệu
tấn
năm
2014,
tăng
241%;
thức
ăn
nuôi
tôm
tăng
110%
từ
272.000
tấn
năm
2010
và
572.000
tấn
năm
2014.
Ngay
cả
ở
Thái
Lan,
một
nước
sản
xuất
tôm
đối
thủ
của
Việt
Nam,
các
DN
tôm
Thái
Lan
cũng
phải
NK
nguyên
liệu
để
đáp
ứng
công
suất
chế
biến.
Năm
2014,
nước
này
NK
124
triệu
USD
tôm
nguyên
liệu
trong
đó
NK
từ
Ấn
Độ
chiếm
25%.
Năm
2015,
các
nhà
chế
biến
Thái
Lan
vẫn
tiếp
tục
NK
tôm
nguyên
liệu
từ
Ấn
Độ
để
bù
đắp
sản
lượng
giảm.
Dự
kiến
nước
này
cần
NK
khoảng
350.000
tấn
tôm
nguyên
liệu
nữa
mới
có
thể
đáp
ứng
tổng
công
suất
chế
biến
của
ngành.
Qua
đó,
có
thể
thấy
NK
nguyên
liệu
để
chế
biến
XK
là
một
xu
hướng
bình
thường
của
các
DN
thủy
sản
trong
đó
có
DN
tôm.
Tất
nhiên
DN
tôm
cũng
mong
muốn
có
nguồn
nguyên
liệu
trong
nước
ổn
định,
giá
hợp
lý
và
chất
lượng
tốt
để
đáp
ứng
tốt
các
yếu
tố
cung-
cầu
–
lợi
nhuận
và
không
phải
phụ
thuộc
vào
nguồn
NK.
Vấn
đề
là
làm
thế
nào
để
giảm
giá
thành
tôm
nuôi để
sản
phẩm
tôm
Việt
Nam
có
thể
cạnh
tranh
được
với
các
nước
khác
trên
thị
trường
thế
giới?.
Theo vasep.com.vn