Để
chọn
được
loài
cá
nuôi
thích
hợp
với
điều
kiện
từng
nông
hộ
cần
phải
xem
xét
vấn
đề
sau:
Khả
năng
cung
cấp
thức
ăn
là
tự
có
hay
mua
(rau
xanh,
thức
ăn
viên,
phụ
phẩm…).
Mục
đích
sử
dụng
nuôi
để
bán
hay
nuôi
để
ăn.
Tùy
từng
vùng
sinh
thái
khác
nhau
mà
chọn
loài
cá
nuôi
cho
phù
hợp.
Ví
dụ
vùng
khó
thay
nước
hay
mô
hình
VAC
có
thể
nuôi
cá
trê,
cá tra…;
vùng
phèn
có
thể
nuôi
cá
rô
đồng,
sặc
rằn,
trê…
Từ
cơ
sở
đó
mà
nông
hộ
có
thể
chọn
loài
cá
nuôi
phù
hợp
với
điều
kiện
thực
tế
của
mình
để
có
thể
tận
dụng
hết
những
tiềm
năng
sẵn
có
tại
nông
hộ.
+
Chất
lượng
con
giống:
Chọn
giống
tốt,
không
mang
mầm
bệnh,
cá
tương
đối
đều
cỡ,
màu
sắc
sáng
đẹp,
bơi
lội
nhanh
nhẹn,
phản
ứng
nhanh,
không
bị
dị
hình,
xây
sát,
nên
mua
giống
ở
những
nơi
có
uy
tín…
Trước
khi
thả
giống
nên
tắm
cá
giống
qua
nước
muối loãng
trong
5 -
10
phút
và
phải
theo
dõi
cá
trong
quá
trình
tắm.
Mục
đích
tắm
nước
muối
để
sát
khuẩn
cho
cá.
+
Mật
độ
thả
thích
hợp:
Nên
thả
đúng
mật
độ
tùy
theo
từng
loài
cá.
Nhóm
cá
không
có
cơ
quan
hô
hấp
phụ
(rô
phi,
mè
hoa,
trắm
cỏ,
chép,
mè
vinh…)
thả
với
mật
độ
dưới
5
con/m2;
nhóm
cá
có
cơ
quan
hô
hấp
phụ
(tra,
trê,
tai
tượng,
rô
đồng,
sặc
rằn…)
thả
với
mật
độ
5 -
15
con/m2.
Thả
đúng
mật
độ
để
cá
lớn
nhanh
lớn
đều,
ít
bệnh,
rút
ngắn
được
thời
gian
nuôi,
đạt
cỡ
lớn
bán
được
giá
cao
không
phải
tốn
tiền
nhiều
để
mua
con
giống
và
thức
ăn
nhằm
mang
lại
hiệu
quả
kinh
tế
cao.
+
Nuôi
ghép:
Trong
cùng
một
ao
có
thể
nuôi
ghép
các
loài
cá
với
nhau
để
tận
dụng
không
gian
mặt
nước
và
tất
cả
các
loại
thức
ăn
có
trong
ao
vì
mỗi
một
loài
cá
sống
ở
một
tầng
nước
và
có
loại
thức
ăn
riêng.
Khi
nuôi
ghép
lưu
ý
5
yêu
cầu
sau:
Số
loài
cá
thả
ghép
dưới
4
loài.
Đối
tượng
nuôi
chính
trên
50%
tổng
các
loại
cá,
còn
lại
là
các
đối
tượng
ghép.
Các
loại
cá
thả
ghép
phải
tương
đối
đều
cỡ
nhau
và
thả
cùng
thời
gian.
Các
loài
cá
ghép
phải
không
cùng
tính
ăn
và
không
gian
sống
(vì
trong
môi
trường
nước
có
3
tầng
là
tầng
mặt,
tầng
giữa
và
tầng
đáy).
Thời
gian
nuôi
và
giá
cá
thương
phẩm
các
loài
cá
gần
bằng
nhau
để
dễ
bán
khi
thu
hoạch.
Ví
dụ:
Tai
tượng
80%,
mùi
hoặc
chép
10%,
sặc
rằn
10%;
cá
tra
80%,
rô
phi
20%;
sặc
rằn
80%,
rô
đồng
20%.
+
Chăm
sóc:
Phải
đúng
kỹ
thuật,
cho
ăn
phải
đạt
4
yêu
cầu:
định
lượng,
định
chất,
định
vị
trí,
định
thời
gian
để
đảm
bảo
cho
cá
khỏe
mạnh,
ít
nhiễm
bệnh.
Nếu
thức
ăn
là
tấm
cám
nấu
thì
nên
để
vô
sàng
cho
cá
ăn
để
dễ
quản
lý
được
thức
ăn.
+Quản
lý
chất
lượng
nước
ao
nuôi:
Ao
phải
thông
thoáng,
độ
sâu
ao
nuôi
cá
thịt
1,2 -
2
m,
độ
sâu
ao
ương
cá
giống
0,5 -
1,2
m,
pH
ổn
định
từ
6,5 -
8,5
tức
là
nước
ao
nuôi
cá
có
màu
xanh
vỏ
đậu
hoặc
xanh
lá
chuối
non
là
tốt,
hàm
lượng
oxy
hòa
tan
>
2
mg/l,
nhiệt
độ
nước
từ 25 -
30
độ
C.
Đối
với
ao
khó
thay
nước
hoặc
không
thay
nước
được:
Khi
nuôi
cá
vào
các
tháng
cuối
gần
thu
hoạch,
nước
ao
và
nền
đáy
ao
rất
dơ
do
thức
ăn
dư
thừa
và
phân
cá
thải
ra
nên
cá
có
nguy
cơ
phát
sinh
bệnh
rất
cao.
Có
thể
xử
lý
bằng
cách
dùng
các
chế
phẩm
sinh
học
(liều
lựơng
sử
dụng
theo
hướng
dẫn
trên
bao
bì).
+
Phòng
bệnh
cho
cá
lúc
giao
mùa:
Vào
mùa
mưa
nhất
là
giai
đoạn
chuyển
mùa
nắng
sang
mưa
ao
rất
dễ
bị
xì
phèn
làm
pH
nước
ao
giảm
thấp;
pH
thay
đổi
đột
ngột
như
vậy
làm
cá
bị
sốc
sẽ
giảm
sức
đề
kháng
và
mầm
bệnh
dễ
dàng
có
cơ
hội
xâm
nhập
vào
cơ
thể
cá.
Nên
phòng
bằng
cách,
định
kỳ
2
tuần/lần
rải
vôi
xung
quanh
bờ
ao
hoặc
đào
rãnh
xung
quanh
bờ
ao
rải
vôi
vào
rãnh
để
ngăn
nước
mưa
mang
phèn
và
chất
dơ
bẩn
từ
trên
bờ
ao
xuống.
Đồng
thời
ngâm
vôi
vào
nước
để
nguội
lấy
phần
nước
vôi
tạt
đều
khắp
ao,
lượng
1 -
3
kg/100
m3
nước.
Vôi
có
tác
dụng
ổn
định
pH
nước
và
phòng
bệnh
cho
cá.
Trong
suốt
quá
trình
nuôi
nên
phòng
bệnh
cho
cá
là
tốt
nhất
vì
khi
cá
bị
bệnh
việc
điều
trị
rất
khó
khăn,
tốn
kém
và
hiệu
quả
không
cao.
Có
thể
định
kỳ
1
tuần/2
lần
trộn
vitamin
C
vào
thức
ăn
cho
cá
ăn
để
tăng
sức
đề
kháng
cho
cá.
Lưu
ý,
vitamin
C
rất
dễ
tan
trong
nước
nên
khi
trộn
vào
thức
ăn
phải
dùng
chất
kết
dính
như
dầu
mực,
bột
gòn…
để
tăng
hiệu
quả
sử
dụng.
Hoặc
có
thể
sử
dụng
những
cây
thuốc
nam
sẵn
có
tại
chỗ
để
phòng
bệnh
cho
cá
như
lá
giác,
lá
xoan…
Trong
suốt
quá
trình
nuôi
phải
ghi
chép
sổ
nhật
ký
đầy
đủ.