Lo
lắng
chất
lượng
cá
giống
Theo
Tổng
cục
thủy
sản
(Bộ
NN
&
PTNT),
hiện
nay
các
tỉnh
ĐBSCL
có
khoảng
230
cơ
sở
sản
xuất
giống
cá
tra
và
trên
4.000
hộ
ươm
dưỡng
cá
giống
với
diện
tích
trên
2.250
ha.
Tuy
sản
lượng
cung
cấp
đủ
nhưng
chất
lượng
cá
tra
giống
chưa
đáp
ứng
được
yêu
cầu.
Nguyên
nhân
là
do
thời
gian
qua
giá
cá
tra
giống
thấp
nên
chưa
khuyến
khích
được
các
cơ
sở
sản
xuất
tập
trung
sản
xuất
với
quy
mô
lớn
vì
vậy
rất
khó
quản
lý
chất
lượng
cá
tra
giống
tại
các
địa
phương.
Bên
cạnh
đó,
giá
cá
bột
không
có
sự
khác
biệt
giữa
cá
có
cải
thiện
di
truyền
và
cá
tại
địa
phương.
Từ
đó,
các
cơ
sở
chưa
mạnh
dạn
đầu
tư
theo
đúng
quy
trình
đối
với
đàn
cá
cải
thiện
di
truyền.
Ông
Nguyễn
Văn
Sáng,
phó
viện
trưởng
Viện
nghiên
cứu
nuôi
trồng
thủy
sản
II
cho
biết,
một
trong
những
vướng
mắc
trong
hoạt
động
sản
xuất
giống
cá
tra
hiện
nay
là
cá
bố
mẹ
hậu
bị
có
nguồn
gốc
không
rõ
ràng,
không
được
tuyển
chọn
và
kích
thước
nhỏ.
Đa
số
cá
bố
mẹ
được
tuyển
chọn
từ
ao
nuôi
cá
thịt
chiếm
tới
hơn
57%,
còn
lại
bắt
từ
tự
nhiên
và
số
rất
ít
từ
con
giống
đã
qua
chọn
lọc.
Trong
khi
đó,
kỹ
thuật
nuôi
vỗ
thành
thục
cá
bố
mẹ
chưa
đạt,
còn
tình
trạng
đẻ
ép,
khai
thác
quá
mức
bằng
cách
cho
cá
tra
bố
mẹ
đẻ
nhiều
lần
trong
năm,
nhất
là
khi
giá
cá
tra
giống
nằm
ở
mức
cao.
Công
nghệ
nuôi
chưa
hoàn
chỉnh
Ông
Nguyễn
Văn
Đời,
nông
dân
nuôi
cá
tra
ở
xã
Tân
Phong,
huyện
Cai
Lậy
(Tiền
Giang)
cho
biết:
“Mấy
năm
trước,
chi
phí
thuốc
thú
y
trong
nuôi
cá
tra
thịt
khoảng
600
đồng/kg
nhưng
bây
giờ
lên
tới
hơn
1.000
đồng/kg.
Vừa
rồi
nghe
thông
tin
có
mấy
kỹ
sư
của
một
công
ty
thuốc
“bao”
phần
thuốc
thú
y
cả
vụ
nuôi
cá
tra
chỉ
600
đồng/kg
nên
chúng
tôi
cũng
đang
phấn
khởi
dù
chưa
biết
kết
quả
thế
nào”.
Ông
Dương
Thanh
My,
nuôi
cá
tra
ở
cùng
xã
cũng
cho
biết,
giá
thành
nuôi
cá
tra
của
ông
chỉ
20.000
-
21.000
đồng/kg
nên
những
đợt
giá
cá
tra
thịt
chỉ
22.000
-
23.000
đồng/kg
thì
ao
nuôi
cá
tra
của
ông
vẫn
có
lãi.
Tuy
nhiên,
nhiều
hộ
nuôi
cá
do
không
nắm
kỹ
thuật,
thiếu
kinh
nghiệm,
có
giá
thành
nuôi
cá
lên
tới
23.000
-
24.000
đồng/kg
nên
coi
như
lỗ
nặng.
Theo
nhiều
hộ
nuôi
cá
tra
ở
cù
lao
Tân
Phong,
huyện
Cai
Lậy
(Tiền
Giang),
tỷ
lệ
chết
cá
tra
nuôi
thâm
canh
ở
địa
phương
này
phổ
biến
ở
mức
trên
50%,
thậm
chí
có
hộ
bắt
cá
giống
không
tốt,
thả
giống
lúc
thời
tiết
bất
lợi
nên
tỷ
lệ
cá
chết
lên
đến
60
-
70%.
Hiện
nay,
nhiều
bệnh
gây
hại
nặng
nề
trên
cá
tra
nhưng
việc
tìm
ra
tác
nhân,
phương
pháp
phòng
trị
hiệu
quả
vẫn
là
bài
toán
khó
giải
đối
với
các
nhà
khoa
học
khiến
chi
phí
sản
xuất
trong
quá
trình
nuôi
cho
con
giống,
thuốc
thú
y
ngày
càng
cao,
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
giảm.
Ông
Phan
Hữu
Hội,
phó
chủ
tịch
Hội
nghề
cá
Tiền
Giang
cho
biết,
nhiều
hộ
nuôi
thả
giống
với
mật
độ
cao
đến
100
con/m2 với
suy
nghĩ
thả
cá
nhiều
để
cá
chết
tới
thu
hoạch
là
vừa.
Điều
này
làm
cho
ao
nuôi
cá
tra
khó
quản
lý,
môi
trường
ao
nuôi
bị
ô
nhiễm,
dịch
bệnh
tăng,
dẫn
đến
giá
thành
sản
xuất
cao.
Hơn
nữa,
hầu
như
các
hộ
nuôi
cá
tra
không
bố
trí
ao
lắng,
ao
xử
lý
nước
thải
mà
xổ
xả
nước
trực
tiếp
vào
nguồn
nước
mặt
trên
sông
làm
cho
mầm
bệnh
luôn
có
sẵn
trong
nguồn
nước
và
sẵn
sàng
đi
vào
ao
nuôi.
Bước
đi
đầu
tiên
trong
tái
cấu
trúc
Tại
hội
thảo
“Tái
cấu
trúc
ngành
hàng
cá
tra
gắn
với
tái
cấu
trúc
ngành
nông
nghiệp
ĐBSCL”
được
tổ
chức
tại
tỉnh
Đồng
Tháp
vừa
qua,
bà
Trương
Thị
Lệ
Khanh,
chủ
tịch
HĐQT
Công
ty
CP
Vĩnh
Hoàn
-
doanh
nghiệp
lớn
trong
lĩnh
vực
chế
biến
xuất
khẩu
cá
tra
ở
ĐBSCL
cho
rằng,
nâng
cao
chất
lượng
giống
và
ứng
dụng
công
nghệ
nuôi
mới
là
bước
đi
đầu
tiên
trong
tái
cấu
trúc
ngành
cá
tra.
Việc
triển
khai
dự
án
nâng
cao
chất
lượng
cá
tra
bố
mẹ
qua
chọn
lọc
di
truyền
của
Bộ
NN
&
PTNT
vô
cùng
cần
thiết.
Đối
với
khâu
ươm
giống,
các
tỉnh
cần
dành
ra
một
phần
đất,
đầu
tư
cơ
sở
hạ
tầng,
có
chính
sách
miễn
tiền
thuê
đất,
ưu
đãi
thuế
để
khuyến
khích
nông
dân
có
tay
nghề
có
thể
thuê
đất
để
ươm
cá
tra
giống.
Trên
cơ
sở
này,
doanh
nghiệp
có
thể
yên
tâm
đặt
hàng
con
giống
có
chất
lượng,
không
sử
dụng
kháng
sinh
với
mặt
bằng
giá
cả
đảm
bảo
người
ươm
giống
có
lãi.
Đối
với
khâu
nuôi,
Bộ
NN
&
PTNT
đồng
ý
với
doanh
nghiệp
là
có
thể
nâng
mật
độ
thả
giống
lên
trên
40
con/m2 bằng
cách
ứng
dụng
công
nghệ
nuôi
mới
để
nâng
cao
sản
lượng,
hiệu
quả
nuôi;
đồng
thời
cần
cải
thiện
chất
lượng
thức
ăn
cá,
kỹ
thuật
chăm
sóc…
để
hệ
số
thức
ăn
(FCR)
nuôi
cá
tra
giảm
0,2
(giảm
0,2
kg
thức
ăn
để
tạo
ra
1
kg
cá),
bởi
chỉ
cần
FCR
giảm
được
0,2
thì
đã
tiết
kiệm
được
cho
đất
nước
100
triệu
USD.
Theo
PGS.TS.
Đỗ
Thị
Thanh
Hương
-
khoa
thủy
sản,
Trường
đại
học
Cần
Thơ,
hiện
nay
những
ao
nuôi
cá
tra
thâm
canh
có
độ
sâu
từ
4
-
4,5
m,
mật
độ
nuôi
lên
đến
gần
100
con/m2 nhưng
chỉ
sử
dụng
phương
pháp
thay
nước
một
phần
theo
sự
biến
động
thủy
triều
trong
ngày.
Tuy
nhiên,
cá
tra
sống
và
hoạt
động
chủ
yếu
ở
tầng
mặt
(0,5
m)
nên
tình
trạng
thiếu
oxy
ở
những
lúc
cao
điểm
(22
giờ
đến
9
giờ)
hay
ở
những
tầng
nước
sâu
hơn
là
điều
không
thể
tránh
khỏi.
Khi
hàm
lượng
oxy
hòa
tan
thấp,
cá
buộc
phải
bơi
lên
tầng
mặt
để
lấy
oxy
từ
không
khí
nên
bị
mất
năng
lượng,
làm
giảm
tốc
độ
tăng
trưởng.
Để
khắc
phục
hạn
chế
này,
người
nuôi
cá
cần
sử
dụng
phương
pháp
sục
khí
để
tăng
hàm
lượng
oxy
trong
nước,
giảm
bớt
khí
độc,
giảm
tiêu
tốn
năng
lượng,
giảm
stress,
cải
thiện
tốc
độ
sinh
trưởng,
tăng
mật
độ
nuôi,
sản
lượng
và
nâng
cao
hiệu
quả
sử
dụng
thức
ăn
của
cá.