Mới
đây,
TS
Lê
Hữu
Quỳnh
Anh
tại
Đại
học
Tài
nguyên
và
Môi
trường
TP
Hồ
Chí
Minh
cùng
các
cộng
sự
đã
hoàn
thành
đề
tài
nghiên
cứu
xây
dựng
mô
hình
điển
hình
xử
lý
và
tái
sử
dụng
nước
thải
nuôi
tôm
sú
ở
ĐBSCL.
Mục
tiêu
đánh
giá
hiệu
quả
kinh
tế
và
môi
trường
đối
với
vấn
đề
tái
sử
dụng
nguồn
nước
NTTS
ở
vùng
ĐBSCL;
phát
triển
thành
công
mô
hình
xử
lý
nước
thải
ao
nuôi
tôm
đạt
tiêu
chuẩn
chất
lượng
và
có
khả
năng
tái
sử
dụng
trên
cơ
sở
các
công
nghệ
đã
được
xây
dựng
ở
CHLB
Đức.
Nước
thải
nuôi
tôm
với
đặc
trưng
nồng
độ
nitơ
và
photpho
cao,
có
khả
năng
gây
hiện
tượng
phú
dưỡng
hóa
môi
trường
nước
cũng
như
tạo
môi
trường
thuận
lợi
cho
các
vi
sinh
vật
có
hại
phát
triển
và
gây
bệnh
cho
tôm
là
vấn
đề
khiến
cho
bất
rất
nhiều
hộ
nuôi
tôm
lo
lắng.
Song
đối
với
những
người
nuôi
tôm
sú
ở
ĐBSCL,
nước
thải
ao
nuôi
có
độ
mặn
cao
lên
đến
25
–
30‰
lại
càng
khó
khăn
hơn
để
giải
quyết.
Trong
khi,
các
công
nghệ
xử
lý
thông
thường
bằng
cả
phương
pháp
hóa
học,
vật
lý,
sinh
học
khó
đem
lại
hiệu
quả
với
chi
phí
thấp
trong
một
môi
trường
nhiễm
mặn
như
vậy.
Sơ
đồ
bố
trí
các
hạng
mục
công
trình
trong
hệ
thống
xử
lý
nước
thải
ao
nuôi
tôm
sú
công
suất
200
m3/ngày
đêm
Do
đó,
TS
Lê
Hữu
Quỳnh
Anh
và
các
đồng
nghiệp
trong
nhóm
đi
tìm
một
giải
pháp
mô
hình
xử
lý
“hai
không”,
đó
là
không
dùng
bất
kỳ
hóa
chất
nào
và
không
tốn
chi
phí
duy
trì
sau
nhiều
năm
sử
dụng.
Theo
đó,
mô
hình
xử
lý
của
nhóm
gồm
có
hồ
trữ
nước
điều
hòa,
hồ
sinh
học,
hồ
đất
ngập
nước
kiến
tạo
và
hồ
cấp
nước
tuần
hoàn
sau
khi
xử
lý.
Với
cách
thiết
kế
này,
nước
thải
từ
ao
nuôi
tôm
sẽ
được
bơm
qua
lưới
lọc
thô
đến
hồ
điều
hòa
rồi
sau
đó
được
bơm
vào
hồ
sinh
học
để
xử
lý
bậc
một.
Tại
hồ
sinh
học,
vi
sinh
vật
hiếu
khí
sẽ
chuyển
hóa
các
thành
phần
ô
nhiễm
hữu
cơ
như
BOD,
COD,
còn
tảo
có
sẵn
trong
hồ
sẽ
sử
dụng
các
chất
dinh
dưỡng
trong
quá
trình
quang
hợp
và
sản
xuất
sinh
khối
(hồ
cũng
sẽ
kết
hợp
nuôi
cá
mật
độ
thấp
để
kiểm
soát
sự
phát
triển
của
tảo).
Đồng
thời,
các
cây
trồng
trên
bè
nổi
(chiếm
khoảng
20%
diện
tích)
của
hồ
sinh
học
cũng
hấp
thu
các
chất
dinh
dưỡng
như
nitơ,
photpho
dư
thừa
thông
qua
rễ,
thân,
nhánh,
từ
đó
đem
lại
hiệu
quả
xử
lý
nước
thải
tổng
thể.
Sau
khi
được
xử
lý
ở
hồ
sinh
học,
nước
thải
sẽ
được
bơm
vào
hồ
tiếp
theo
là
hồ
đất
ngập
nước
kiến
tạo
để
xử
lý
lần
hai.
Tại
hồ
này,
nhóm
nghiên
sử
dụng
các
vật
liệu
lọc
như
đá,
cát,
sỏi
và
trên
bề
mặt
trồng
các
loại
thực
vật
có
khả
năng
chịu
mặn
cao
tương
tự
như
ở
hồ
sinh
học
để
loại
bỏ
triệt
để
các
chất
rắn
lơ
lửng,
chất
hữu
cơ,
chất
dinh
dưỡng
và
vi
sinh
vật
trong
nước
thải.
Sau
khi
xử
lý
xong,
nước
thải
đạt
tiêu
chuẩn
sẽ
được
đưa
vào
hồ
trữ
nước
và
cấp
trở
lại
cho
ao
nuôi
tôm.
Bên
cạnh
đó,
sau
một
mùa
vụ,
bùn
thải
cũng
sẽ
được
xử
lý
bằng
hồ
bãi
lọc
sinh
học
được
xây
dựng
tương
tự
như
hồ
đất
ngập
nước
kiến
tạo.
Sau
hai
năm
thử
nghiệm
mô
hình
tại
HTX
NTTS
30/4
ở
Bạc
Liêu,
kết
quả
mà
nhóm
nghiên
cứu
thu
được
vô
cùng
khả
quan:
Hệ
thống
hoạt
động
ổn
định,
hiệu
suất
xử
lý
của
toàn
hệ
thống
đạt
ở
mức
cao,
nước
thải
đầu
vào
được
xử
lý
hơn
80%
các
chất
hữu
cơ
gây
ô
nhiễm
như
COD,
BOD5
và
đáp
ứng
các
quy
chuẩn
kỹ
thuật
quốc
gia
trong
việc
tái
sử
dụng
nước
cũng
như
xả
thải.
Cụ
thể,
COD
được
loại
bỏ
với
hiệu
suất
trung
bình
khoảng
86%,
với
BOD5
là
khoảng
84%,
TN
khoảng
89%,
Coliform
khoảng
86%…
Các
chỉ
tiêu
của
nước
thải
sau
xử
lý
đáp
ứng
các
điều
kiện
của
QCVN
01-80:2011/BNNPTNT
quy
định
điều
kiện
vệ
sinh
thú
y
đối
với
các
cơ
sở
NTTS
thương
phẩm
và
QCVN
10-MT:2015/BTNMT
–
Quy
chuẩn
kỹ
thuật
quốc
gia
về
chất
lượng
nước
biển.
TS
Lê
Hữu
Quỳnh
Anh
cho
biết,
để
thực
hiện
mô
hình
này
thì
việc
đầu
tư
ban
đầu
về
hồ
đất
ngập
nước
kiến
tạo
là
hơi
cao
do
cần
phải
lót
bạt
và
sử
dụng
vật
liệu
lọc
như
đất,
đá,
cát.
Nhưng,
so
với
việc
dùng
chế
phẩm
sinh
học
hay
một
hệ
thống
bằng
công
nghệ
phải
bảo
dưỡng
định
kỳ,
mô
hình
xử
lý
này
một
khi
đã
xây
dựng
rồi
thì
sẽ
có
thể
sử
dụng
được
trong
thời
gian
dài
từ
5
–
10
năm,
thỉnh
thoảng
chỉ
cần
thêm
đất
ở
phía
trên
để
trồng
cây
và
thu
hoạch,
gần
như
không
tốn
chi
phí
duy
trì
nào.
Được
biết,
nhóm
nghiên
cứu
sẽ
thiết
kế,
lắp
đặt
hệ
thông
quan
trắc
và
phân
tích
chất
lượng
nước
thải
ao
nuôi
tôm
theo
công
nghệ
của
CHLB
Đức,
nhằm
thực
hiện
các
nghiên
cứu
tại
khu
vực
thí
điểm;
đồng
thời,
có
thể
phục
vụ
các
địa
phương
lân
cận.
Hệ
thống
phân
tích
tại
chỗ
này
giúp
cho
người
dân
có
thể
theo
dõi
chất
lượng
nước
ao
tôm
một
cách
chính
xác
nhất
thay
cho
các
phương
pháp
truyền
thống
như
đánh
giá
mùi,
độ
đục
và
từ
đó
có
thể
phát
hiện
các
vấn
đề
để
có
giải
pháp
xử
lý
kịp
thời.