Vai
trò
của
vi
khuẩn
Bacillus
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
GiốngBacillus
phân
bố
rất
rộng
trong
tự
nhiên,
nhất
là
trong
đất,
chúng
tham
gia
tích
cực
vào
sự
phân
hủy
vật
chất
hữu
cơ
nhờ
vào
khả
năng
sinh
nhiều
loại
enzyme
ngoại
bào.
Bacillus
được
tìm
thấy
gần
500
loài,
là
vi
khuẩn
hình
que,
gram
dương,
sinh
trưởng
hiếu
khí
hoặc
kỵ
khí
không
bắt
buộc,
tất
cả
đều
hình
thành
nội
bào
tử.
Do
sự
đa
dạng
sinh
thái
và
loài
nên
các
hoạt
chất
sinh
họcluận
văn
-
báo
cáo
-
tiểu
luận
chuyên
ngành
Sinh
học
của
chúng
cũng
rất
phong
phú.
Triển
vọng
ứng
dụng
Bacillus
trong
nhiều
lĩnh
vực
đời
sống,
đặc
biệt
là
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
là
rất
to
lớn.
Một
số
loài
thuộc
nhóm
vi
khuẩnBacillus
như:
B.
subtilis,
B.
aterrimus.
B.
niger,
B.
pumilis,
B.
panis,
B.
vulgarus,
B.
nigrificans,
B.
natto,
B.
licheniformis,
B.
amyloliquefaciens,
B.
megaterium,
B.
mesentericus…
đã
được
ứng
dụng
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
với
vai
trò
cải
thiện
sức
khỏe,
tăng
cường
các
phản
ứng
miễn
dịch
và
cải
thiện
môi
trường.
Khả
năng
sinh
các
enzyme
phân
hủy
các
hợp
chất
hữu
cơ
và
kiểm
soát
sự
phát
triển
quá
mức
của
vi
sinh
vật
gây
bệnh
(Vibrio)
giữ
cho
môi
trường
luôn
ở
trạng
thái
cân
bằng
là
đặc
tính
nổi
trội
của
nhóm
vi
khuẩn
này.
Hình
dạng
khuẩn
lạc
và
nhuộm
Gram
vi
khuẩn
Bacillus
2.
Ứng
dụng
của
vi
khuẩn
Bacillus
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
2.1.
Cải
thiện
sức
khỏe
-
Đóng
góp
nguồn
dinh
dưỡng
và
enzyme
tiêu
hóa:
Cung
cấp
dinh
dưỡng
trực
tiếp:
một
số
nghiên
cứu
trên
các
đối
tượng
nuôi
thủy
sản
như:
luân
trùng,
Artemia,
nhuyễn
thể,
ấu
trùng
giáp
xác,
cá…
cho
thấy
Bacillus
đã
trực
tiếp
cung
cấp
chất
dinh
dưỡng
cho
vật
nuôi
đặc
biệt
là
acid
béo
và
vitamin.
Một
nghiên
cứu
khác
trên
cá
hồi
chấm
hồng
Bắc
cực
(Salvelinus
alpinus
L)
kết
quả
cũng
cho
thấy
vi
khuẩn
có
thể
đã
có
vai
trò
quan
trọng
trong
quá
trình
dinh
dưỡng
của
cá.
Nghiên
cứu
tương
tự
trên
tôm
thẻ
trưởng
thành
(Penaeus
chinensis)
cho
thấy
hệ
vi
sinh
vật
đã
cung
cấp
nguồn
dinh
dưỡng
và
là
nguồn
thức
ăn
trực
tiếp
cho
tôm.
Vì
vậy,
ứng
dụng
vi
khuẩn
Bacillus
trong
nuôi
trồng
thủy
sản
thường
cho
kết
quả
cao
về
tỉ
lệ
sống,
tăng
trưởng
và
hiệu
quả
kinh
tế.
Hỗ
trợ
tiêu
hóa:
vài
loài
vi
khuẩn
đã
được
nghiên
cứu
trên
động
vật
hai
mãnh
vỏ
cho
thấy
vi
khuẩn
còn
góp
phần
hỗ
trợ
tiêu
hóa
do
chúng
sản
sinh
các
enzyme
như
proteases,
lipases,
giúp
cho
quá
trình
tiêu
hóa
của
vật
chủ
tốt
hơn.
-
Tăng
cường
các
phản
ứng
miễn
dịch
Vi
khuẩn
có
thể
làm
tăng
đáp
ứng
miễn
dịch
không
đặc
hiệu.
Một
nghiên
cứu
sử
dụng
vi
khuẩn
trộn
vào
thức
ăn
trên
cá
hồi
nước
ngọt
(Rainbow
trout),
kết
quả
làm
tăng
sự
đề
kháng
với
vi
khuẩn
gây
bệnh
Vibrio
thông
qua
làm
tăng
hoạt
động
thực
bào
của
bạch
cầu.
Một
nghiên
cứu
khác
của
Rengpipat
et
al.,
(2000)
trên
đối
tượng
tôm
sú
cũng
cho
rằng
sử
dụng
Bacillus
sp.
(S11)
giúp
vật
nuôi
ít
nhiễm
bệnh
do
vi
khuẩn
Bacillus
đã
tiết
ra
các
chất
làm
tăng
đáp
ứng
cả
miễn
dịch
tế
bào
lẫn
miễn
dịch
dịch
thể.
Balcázar
(2003)
chứng
minh
Bacillus
làm
tăng
tỉ
lệ
sống
và
tăng
trưởng
của
tôm
thẻ
do
khống
chế
V.
harveyi
và
virus
đốm
trắng.
Một
nghiên
cứu
khác
của
Hadi
Zokaei
et
al.,
(2009)
trộn
B.
subtilis
vào
thức
ăn
tôm
thẻ
chân
trắng
làm
tôm
tăng
trưởng
nhanh
và
tỉ
lệ
sống
cao
hơn
so
với
đối
chứng,
mặt
khác
mật
độ
B.
subtilis
cũng
tăng
nhanh
trong
hệ
tiêu
hóa
của
tôm
và
mật
độ
Vibrio
giảm.
2.2.
Cải
thiện
môi
trường
-
Phân
hủy
các
chất
thải:
Bacillus
tiết
ra
enzyme
phân
hủy
các
chất
như
carbonhydrate,
chất
béo
và
đạm
thành
những
đơn
vị
nhỏ
hơn.
Chúng
cũng
có
khả
năng
phân
hủy
các
chất
hữu
cơ
tích
lũy
trong
nền
đáy
ao
nuôi
tôm.
Bacillus
có
tác
dụng
làm
giảm
COD,
H2S
trong
ao
tôm
làm
tăng
năng
suất
nuôi.
Do
nhóm
vi
khuẩn
Bacillus
là
vi
khuẩn
vi
khuẩn
gram
(+)
thường
phân
hủy
vật
chất
hữu
cơ
thành
CO2 tốt
hơn
nhóm
gram
(-).
Urê
và
axit
uric
có
trong
thành
phần
chất
thải
của
động
vật
nuôi
thủy
sản.
Quá
trình
amôn
hóa
urê
trãi
qua
2
giai
đoạn,
urê
sẽ
bị
thủy
phân
tạo
thành
muối
carbonate
amôn.
Ở
giai
đoạn
2,
carbonate
amôn
chuyển
hóa
thành
NH3,
CO2
và
H2O.
Axit
uric
bị
các
vi
sinh
vật
phân
giải
thành
urê
và
acid
tactronic.
Sau
đó
urê
sẽ
tiếp
tục
bị
phân
giải
thành
NH3.
Bacillustham
gia
trong
quá
trình
amôn
hóa
protein
là
quá
trình
phân
giải
các
hợp
chất
hữu
cơ
chứa
nitơ,
giải
phóng
NH3.
Ban
đầu
protein
bị
phân
cắt
thành
pepton,
polypeptid
oligopeptid,
dipeptid
và
acid
amin.
Một
phần
axit
amin
sẽ
được
tế
bào
Bacillus
hấp
thu
làm
chất
dinh
dưỡng,
phần
khác
sẽ
thông
qua
quá
trình
khử
amin
tạo
thành
NH3
và
nhiều
sản
phẩm
trung
gian
khác
tùy
theo
điều
kiện.
Sản
phẩm
cuối
cùng
chủ
yếu
của
quá
trình
vô
cơ
hóa
hiếu
khí
protein
là
ammonia,
carbonic,
các
muối
của
acid
sulfuric
và
acid
phosphoric.
-
Giảm
chất
độc
NH3,
H2S:
Trong
điều
kiện
kỵ
khí,
các
acid
amin
không
được
vô
cơ
hóa
hoàn
toàn,
bên
cạnh
NH3
và
CO2
còn
tích
lũy
nhiều
loại
hợp
chất
hữu
cơ
khác
như
acid
hữu
cơ,
rượu,
H2S
và
những
dẫn
suất
của
nó
như
mecaptan,
các
chất
độc
như
diamin
và
tomain,
indon
và
scaton.
Đây
là
lý
do
người
nuôi
luôn
phải
duy
trì
hàm
lượng
oxy
hòa
tan
cao,
nhất
là
oxy
ở
đáy
ao
luôn
cao
để
đảm
bảo
quá
trình
phân
hủy
hữu
cơ
xảy
ra
hoàn
toàn.
Ứng
dụng
Bacillus
trong
trường
hợp
này
làm
tăng
quá
trình
phân
hủy
hữu
cơ
tránh
đáy
ao,
làm
giảm
các
chất
dư
thừa
tích
tụ
đáy
ao,
giảm
phát
sinh
khí
độc,
mùi
hôi
đáy
ao.
2.3.
Ức
chế
tác
nhân
gây
bệnh
-
Tiết
ra
kháng
sinh:
Có
rất
nhiều
nghiên
cứu
chứng
minh
vi
khuẩn
có
thể
tiết
vào
môi
trường
chất
có
tính
sát
khuẩn
hoặc
kìm
hãm
khuẩn
gây
ảnh
hưởng
đến
quần
thể
vi
sinh
khác.
Mục
đích
gián
tiếp
là
cạnh
tranh
dinh
dưỡng
và
năng
lượng
có
sẵn
trong
môi
trường.
Nghiên
cứu
của
Stein
(2005)
cho
thấy
tiềm
năng
sản
sinh
chất
kháng
sinh
của
B.
subtilis
đã
được
ghi
nhận
hơn
50
năm
qua.
Hiện
nay
tác
giả
đã
tổng
kết
có
vài
trăm
dòng
vi
khuẩn
B.
subtilis
có
khả
năng
tiết
ra
hơn
20
chất
kháng
sinh
với
cấu
trúc
khác
nhau.
Bao
gồm:
subtilin,
ericin,
mersacidin,
sublancin,
subtilosin,
surfactin,
iturin,
bacillibactin,
bacillmycin,
mycosubtilin,
fengycin,
plipastatin,
corynebactin,
bacilysin,
difficidin,
oxydifficicin,
bacilysocin,
rhizocticin,
amicoumacin,
mysobaccillin...
Hầu
hết
các
chất
được
tiết
ra
trong
ruột,
trên
bề
mặt
cơ
thể
vật
chủ
hay
ra
môi
trường
nước
làm
rào
cản
sự
nhân
lên
của
vi
khuẩn
cơ
hội
gây
ức
chế
các
vi
sinh
vật
gây
bệnh.
Các
chất
diệt
khuẩn
này
có
thể
có
tác
dụng
đơn
lẽ
hoặc
kết
hợp
nhau.
-
Cạnh
tranh
dinh
dưỡng:
Sự
cạnh
tranh
chủ
yếu
xảy
ra
ở
nhóm
vi
sinh
vật
dị
dưỡng,
cạnhtranh
cơ
chất
hữu
cơ,
là
nguồn
carbon
và
năng
lượng.
Những
nghiên
cứu
liên
quan
đến
lĩnh
vực
này
chưa
nhiều.
Rico-Mora
(1998),
đã
đưa
một
dòng
vi
khuẩn
có
khả
năng
phát
triển
trên
môi
trường
nghèo
hữu
cơ.
Cấy
vi
khuẩn
này
vào
bể
nuôi
tảo
khuê
cùng
với
Vibrio
alginolyticus,
kết
quảVibrio
không
phát
triển.
Điều
này
chứng
tỏ
vi
khuẩn
được
chọn
lọc
cạnh
tranh
lấn
át
Vibrio
trong
điều
kiện
nghèo
hữu
cơ.
Verschuere
et
al.,
(1999)
đã
chọn
lọc
vài
dòng
vi
khuẩn
có
ảnh
hưởng
tốt
đến
tỉ
lệ
sống
và
tăng
trưởng
của
ấu
trùng
Artemia
để
làm
thí
nghiệm.
Những
vi
khuẩn
này
được
đưa
vào
môi
trường
nuôi
Artemia
sau
khi
nước
nuôi
đã
được
lọc
sạch.
Kết
quả
cho
thấy
chất
kìm
hãm
được
tiết
ra
môi
trường
có
tác
dụng
chống
lại
vi
khuẩn
gây
bệnh
V.
proteolytics
CW8T2.
Vì
vậy,
những
dòng
vi
khuẩn
chọn
lọc
sẽ
có
ưu
thế
trong
việc
cạnh
tranh
năng
lượng
và
chất
dinh
dưỡng.
-
Cạnh
tranh
chất
sắt:
Tất
cả
các
vi
sinh
vật
đều
cần
chất
sắt
cho
sinh
trưởng
(Reid
et
al.,
1993).
Hiện
tượng
siderophores
là
hiện
tượng
vi
khuẩn
tiết
ra
chất
kết
tủa
các
ion
sắt
có
trọng
lượng
phân
tử
thấp
trong
môi
trường.
Các
vi
sinh
vật
này
sẽ
hấp
thu
các
phân
tử
Fe
kết
tủa
này
và
làm
mất
Fe
trong
môi
trường.
Các
vi
sinh
vật
gây
bệnh
cần
nhiều
sắt
để
tăng
trưởng,
do
vậy
dẫn
đến
hiện
tượng
cạnh
tranh
Fe
của
vi
sinh
vật
trong
thủy
vực,
kết
quả
làm
hạn
chế
mầm
bệnh
trong
môi
trường
(Neilands,
1981;
Wooldridge
et
al.,
1993).
Tóm
lại,
các
chế
phẩm
vi
sinh
có
chứa
vi
khuẩn
Bacillus
có
thể
góp
phần
làm
giảm
rủi
ro
do
dịch
bệnh
nhờ
vào
khả
năng
giúp
cải
thiện
sức
khỏe
của
tôm
cá,
cải
thiện
môi
trường
và
ức
chế
tác
nhân
gây
bệnh
trong
ao
nuôi.
Theo
UV-Việt
Nam