Khi
đạt
đến
mức
giới
hạn
Nitrat
sẽ
gây
độc
rất
lớn
với
tôm
càng
xanh
giai
đoạn
ấu
trùng.
Dân
số
thế
giới
ngày
càng
tăng,
nhưng
các
nguồn
thủy
sản
đánh
bắt
từ
tự
nhiên
lại
vô
cùng
hạn
chế
và
đang
trên
đà
thiếu
hụt
trầm
trọng.
Điều
đó
đang
là
gánh
nặng
đặt
lên
“vai”
của
ngành
nuôi
trồng
thủy
sản
với
trách
nhiệm
sản
xuất
và
cung
cấp
đủ
cho
nhu
cầu
của
người
dân
trên
toàn
thế
giới.
Trách
nhiệm
thì
sẽ
tồn
tại
đồng
thời
với
sự
bền
vững
và
hợp
lý
về
phương
thức
sản
xuất
của
ngành.
Ngành
nuôi
trồng
thủy
sản
hiện
nay
đang
là
một
trong
những
ngành
chính
cung
cấp
nguồn
thực
phẩm
lớn,
lại
dễ
áp
dụng
các
công
nghệ,
mô
hình
mới
vào
sản
xuất.
Nuôi
tôm
là
hoạt
động
đầy
hứa
hẹn
của
ngành,
nhờ
giá
trị
của
sản
phẩm
sản
xuất
được
ngày
càng
tăng,
mang
lại
lợi
nhuận
cao
cho
người
nuôi.
Trong
đó
nghề
nuôi
tôm
càng
xanh
cũng
ngày
càng
được
quan
tâm,
chú
trọng
nhiều
hơn.
Vì
tôm
càng
xanh
lớn
con,
dễ
nuôi
và
đa
dạng
các
mô
hình
sản
xuất.
Từ
chuyên
canh,
thâm
canh,
nuôi
ghép
với
cá
trong
ao
đất
đến
các
hệ
thống
tuần
hoàn
khép
kín
đều
áp
dụng
được
với
mật
nuôi
này.
Do
đó,
trên
thế
giới
đã
có
nhiều
nghiên
cứu
về
các
yếu
tố
ảnh
hưởng
khi
áp
dụng
công
nghệ
mới
trong
các
hệ
thống
nuôi
tôm
càng
xanh.
Các
hệ
thống
nuôi
như
biofloc,
tuần
hoàn
khép
kín
được
xem
là
bền
vững
khi
nước
sử
dụng
ổn
định,
được
kiểm
soát
chặt
chẽ,
giảm
lượng
nước
thải,
bên
cạnh
việc
tăng
năng
suất
cao
khi
nuôi.
Tuy
nhiên
các
chỉ
tiêu
chất
lượng
nước
ngày
càng
sụt
giảm
chất
lượng
là
do
hầu
hết
các
chất
thải
có
nguồn
gốc
nitơ,
đây
cũng
là
vấn
đề
chính
mà
các
hệ
thống
trên
phải
đối
mặt.
Hiện
nay
nhiều
người
đang
đầu
tư
sử
dụng
các
hệ
thống
lọc
sinh
học
bằng
cách
để
vi
khuẩn
có
lợi
(Nitrosomonas
và
Nitrobacter)
thực
hiện
nitrat
hóa
để
giảm
thiểu
các
mối
nguy
hại
từ
amoniac
(NH3)
hay
nitrit
(NO2).
Tuy
nhiên
sản
phẩm
cuối
cùng
của
sự
lọc
này
là
nitrat
(NO3)
cũng
gây
hại
nếu
đạt
đến
hàm
lượng
nhất
định.
Vì
vậy
đòi
hỏi
phải
áp
dụng
một
công
nghệ
khác
để
loại
bỏ
nitrat
ra
khỏi
ao
nuôi.
Kịch
bản
gây
hại
của
nitrat
thậm
chí
còn
tệ
hơn
nửa
nếu
nước
trong
hệ
thống
đã
được
sử
dụng
trong
một
thời
gian
dài.
Thật
ra
độc
tính
của
nitrat
độc
hơn
rất
nhiều
so
với
chúng
ta
vẫn
nghĩ,
nồng
độ
nitrat
cao
sẽ
làm
giảm
sự
tăng
trưởng
của
vật
nuôi.
Với
nồng
độ
cao
thì
nitrat
hoàn
toàn
có
thể
gây
độc
cho
tôm
càng
xanh
ở
lúc
nhạy
cảm
như
giai
đoạn
ấu
trùng,
sinh
sản.
Khi
đó
sức
khỏe
và
kích
cỡ
của
tôm
đều
bị
ảnh
hưởng
rất
mạnh,
các
chức
năng
của
cơ
quan
cảm
giác
cũng
bị
tổn
hại,
giảm
khả
năng
bắt
mồi.
Nếu
nghiên
cứu
được
nồng
độ
chính
xác
gây
độc
ở
các
cấp
độ
cấp
tính
và
mãn
tính
sau
khi
ấu
trùng
tôm
càng
xanh
tiếp
xúc
với
nitrat
thì
sẽ
tìm
được
biện
pháp
hạn
chế
ảnh
hưởng
của
độc
chất
này,
qua
đó
gia
tăng
sự
bền
vững
trong
việc
ương
nuôi
ấu
trùng
tôm
càng
xanh.
Sau
xét
nghiệm
cho
thấy
tỷ
lệ
chết
của
ấu
trùng
tôm
càng
xanh
là
100%
sau
khi
tiếp
xúc
với
800mg/l
trong
12
giờ
và
400mg/l
trong
48
giờ.
Tuy
nhiên,
nồng
độ
gây
độc
đôi
khi
cũng
không
quá
cứng
nhắc,
mức
độ
an
toàn
của
tôm
với
độc
tính
còn
có
thể
thay
đổi
do
các
tác
động
bên
ngoài.
Các
nghiên
cứu
trước
đây
chứng
minh
tác
dụng
độc
hại
của
nitrat
đối
với
tôm
càng
xanh
còn
tùy
vào
giới
tính
và
môi
trường
sống
của
chúng.
Khi
nồng
độ
nitrat
tăng
cao,
những
căng
thẳng
liên
quan
đến
việc
thiếu
oxy
bắt
đầu
xuất
hiện
khi
mà
quá
trình
tiếp
nhận
oxy
của
tôm
bị
giới
hạn,
pH
máu
bị
thay
đổi,
việc
vận
chuyển
oxy
trong
máu
tôm
bị
tắc
nghẽn.
Hơn
nữa
quá
trình
thẩm
thấu,
quá
trình
lột
xác
của
cơ
thể
tôm
cũng
bị
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
mà
thủ
phạm
vẫn
là
nitrat.
Với
việc
hấp
thu
được
ít
oxy,
sự
tăng
trưởng
giảm,
khả
năng
vận
động,
sức
sinh
sản
cùng
các
chức
năng
của
cơ
thể
tôm
đều
bị
giảm
sút,
cuối
cùng
là
thiệt
hại
lớn
về
kinh
tế
trong
hệ
thống
sản
xuất.
Nếu
không
có
biện
pháp
xử
lý
kịp
thời,
nồng
độ
nitrat
sẽ
đạt
đến
mức
độc
hại
trước
cả
khi
nồng
độ
amoniac
và
nitrit
phát
sinh
mạnh
và
gây
độc
(nhờ
hiệu
quả
lọc
sinh
học
của
những
vi
khuẩn
nitrat
hóa).
Nói
tóm
lại,
hành
trình
tìm
hiểu
độc
tính
nitrat
ảnh
hưởng
đến
ấu
trùng
tôm
càng
xanh
đã
thu
về
được
nhiều
hiểu
biết
về
tác
hại
lớn
đối
với
sự
tăng
trưởng
của
loài
này.
Kết
luận
được
giới
hạn
độc
tính
của
nitrat
đối
với
ấu
trùng
tôm
càng
xanh
là
8,62mg/l,
trên
mức
này
có
thể
sẽ
gây
ra
những
triệu
chứng
cấp
tính.
Do
đó,
trong
quá
trình
ương
nuôi
cần
có
các
biện
pháp
kiểm
soát
chặt
chẽ
nồng
độ
nitrat
để
thu
về
được
hiệu
quả
cao
hơn.