Trong
môi
trường
đặc
trưng,
các
ngoại
sinh
vật
này
bám
trên
vỏ
tôm
với
lượng
lớn
gây
ra
các
bệnh
đặc
trung
trên
tôm
nuôi
như:
tôm
đóng
rong
nhớt,
tôm
đen
mang.
So
với
lớp
chất
nhày
của
các
loài
khác
thì
lớp
chitin
trên
vỏ
giáp
xác
rất
thích
hợp
cho
việc
bám
và
phát
triển
của
ngoại
sinh
vật.
1.
Ảnh
hưởng
của
ngoại
sinh
vật
bám
trên
tôm
Các
ngoại
sinh
vật
kí
sinh
trên
tôm
thường
xuất
hiện
nhiều
trong
ao
nuôi
mật
độ
cao
hoặc
nước
dơ,
nhiều
chất
hữu
cơ
lơ
lững.
Chúng
ăn
vi
khuẩn,
tảo
đơn
bào
và
protozoa
nhỏ
hơn.
Hầu
hết
sinh
vật
kí
sinh
trên
mang
hoặc
bề
mặt
là
những
sinh
vật
sống
tự
do,
không
thực
kí
sinh,
chúng
xem
tôm
như
giá
thể.
Ngoại
sinh
vật
bám
không
gây
hại
trực
tiếp
cho
tôm.
Chúng
gây
ra
các
tác
hại
gián
tiếp
do:
-
Bám
vào
mang,
ngăn
dòng
nước
chảy
qua
mang,
làm
cản
trao
đổi
khí
của
tôm.
-
Bám
vào
vỏ
gây
khó
lột
xác,
di
chuyển.
-
Tôm
bị
ngoại
sinh
vật
bám
bắt
mồi
không
hiệu
quả.
Tuy
nhiên,
vài
loài
ngoại
sinh
vật
bám
có
khả
năng
tạo
ra
ngoại
độc
tố
gây
tổn
thương
tế
bào
vật
chủ.
2.
Tác
nhân
Vi
khuẩn: các
vi
khuẩn
dạng
sợi,
gram
âm
như Leucothrix
mucor,
Leucothrix spp.
Vi
khuẩn
dạng
sợi
nhỏ
và
chuỗi
như Flavobacterium sp., Cytophaga sp., Flexibacter sp., Vibrio sp., Spirochetets,…
Protozoa: các
protozoa
có
vành
lông
rung
như Zoothanium sp., Epistilis sp., Vorticella sp.
Apostome
như Ascophrys spp.
Loricate
ciliates:
Lagenophrys
spp.
Suctorians:
Acineta
spp.,
Ephelota
sp.,
Flagellates:
Bodo-like
flagellates
và
Chrysidella
sp.
Các
loài
protozoa
khi
gặp
điều
kiện
sống
không
thuận
lợi
có
thể
đứt
cuống,
tìm
nơi
kí
sinh
mới.
Tảo: tảo
silic
lông
chim
như Nitzchia spp, Amphiprora spp
và Navicula spp;
tảo
lục;
tảo
mắt;
tảo
lam
như Spirulina
subsala,
Lyngbya,
Schizothrix
spp.
Ngoài
các
yếu
tố
sinh
vật
còn
các
yếu
tố
vô
sinh
như
muối
kim
loại
trong
nước
kết
tủa
lên
vỏ
tôm
nuôi.
3.
Chuẩn
đoán
Dấu
hiệu
bệnh:
Màu
sắc
cơ
thể
bất
thường:
mang
và
phụ
bộ
chuyển
sang
màu
nâu
hoặc
đen
do
cặn
đáy,
đất,
các
chất
ngoại
lai
“bị
bắt”
bởi
các
ngoại
sinh
vật
sống
bám
hoặc
chuyển
sang
xanh
hay
xanh
nâu
do
tảo.
Thường
xuất
hiện
kèm
các
dấu
hiệu
bệnh
gây
ra
do
nhiễm
khuẩn.

Mang
chuyển
màu
do
sợi
khuẩn
bám

Mang
chuyển
màu
do
tảo
bám

Zoothamnium
bám
dày
đặc
trên
vỏ
tôm
sú
làm
tôm
chuyển
màu
đen
và
nhớt
Tôm
lột
xác
và
chết
với
vỏ
sạch
và
mềm:
tôm
ăn
và
sống
bình
thường
tới
khi
lột
xác,
vào
thời
điểm
lột
xác
–
thường
vào
giữa
khuya
tới
sáng,
tôm
lột
xác
khó
khăn
trở
nên
rất
yếu
và
dễ
chết
trong
điều
kiện
oxy
hòa
tan
thấp
(dưới
3ppm).
Soi
mẫu
tươi
dưới
kính
hiển
vi
Chuẩn
bị
mẫu: cắt
lấy
mang,
phụ
bộ
và
chóp
đuôi
tôm
soi
dưới
kính
hiển
vi
để
kiểm
tra
sự
hiện
diện
của
ngoại
sinh
vật
bám.

Chuẩn
bị
mẫu
và
soi
dưới
kính
hiển
vi
Nhận
dạng
một
số
loài
ngoại
sinh
vật
bám
thường
gặp
trong
ao
tôm
dưới
kính
hiển
vi:
-
Protozoa Zoothamnium và Carchesium: 2
loài
này
tương
tự
nhau,
cơ
thể
có
hình
nón
tới
gần
tròn
nhưng
có
sự
khác
nhau
ở
cơ
co
rút
(myoneme)
bên
trong
cuống.
Cơ
co
rút
của
các Zoothamnium dính
nhau,
tạo
thành
hình
như
nhánh
cây
trong
khi
cơ
co
rút
của
các Carchesium không
dính
nhau.

Zoothamnium
và
Carchesium
Do
cơ
co
rút
của Zoothamnium dính
nhau
nên
các
tế
bào
sẽ
co
rút
cùng
một
lượt.
Tế
bào Carchesium co
rút
đơn
lẽ.

Kiểu
co
rút
cơ
ở
Zoothamnium
-
Protozoa Epistylis: tế
bào
có
hình
chuông,
thông
thường
có
2
tế
bào
nằm
chung
một
nhánh. Epistylis không
có
cơ
co
rút
nên
chỉ
co
rút
tế
bào.

Epistylis

Epistylis
bám
trên
copepoda

Epistylis
và
Zoothamnium
trên
mang
tôm
thẻ
chân
trắng
-
Protozoa Acineta: cơ
thể
có
hình
chữ
Y,
có
từ
8
–
12
ống
hút
xếp
dạng
phóng
xạ,
không
có
cơ
quan
bám
rõ
ràng.

Acineta
bám
trên
mang
tôm
-
Vi
khuẩn
dạng
sợi Leucothrix: phân
bố
rộng,
có
khoảng
30
chủng
nhưng
rất
khó
phân
biệt
chúng
với
nhau.
Sợi
khuẩn
sống
phụ
sinh
phổ
biến
trên
tảo
lớn
biển,
các
sinh
vật
đáy,
trứng
đang
phát
triển,
ấu
trùng
và
cặn
đáy
và
gây
cản
trở
cho
các
sinh
vật
bị
phụ
sinh.
Thông
thường
sự
bám
này
không
làm
tổn
hại
các
tế
bào
biểu
mô
chổ
bám
nhưng
cho
phép
các
chất
cặn
và
tảo
bám
vào
mang
nên
gây
ngạt
thở
cho
tôm.
Dưới
kính
hiển
vi
10
–
40X,
sợi
khuẩn
có
dạng
sợi
dài
ngắn
nhiều
kích
thước,
trong
suốt,
một
đầu
bám
vào
vỏ
tôm,
một
đầu
di
động
uốn
lượn
trong
nước.

Sợi
khuẩn
bám
trên
chân
bò
và
vỏ
của
tôm
thẻ
giống
-
Tảo
bám: thường
gặp
là
các
loài
tảo
lục,
silic,
tảo
lam.

Tảo
bám
trên
copepoda

Tảo
lam
bám
trên
mang
tôm
sú
Kiểm
tra
ngoại
sinh
vật
bám:
Lấy
mẫu
tôm
bệnh:
chọn
từ
3
–
10
cá
thể
bệnh
vì
giúp
biết
được
nguyên
nhân
gây
bệnh
từ
đó
xác
định
loại
thuốc
hợp
lý
để
cứu
những
con
còn
lại.
Kiểm
tra
mang
và
phụ
bộ:
soi
tươi
ở
độ
phóng
đại
10
–
40X,
so
sánh
mức
độ
cảm
nhiễm
theo
bảng:



6.
Xử
lý
Khi
mật
độ
ngoại
sinh
vật
bám
quá
nhiều
hoặc
sự
bám
gây
ra
các
tổn
thương
trên
mô
làm
tôm
có
xu
hướng
tăng
lột
xác
tự
làm
sạch.
Khi
tôm
lột
xác,
ngoại
sinh
vật
bám
có
thể
trở
lại
dạng
sống
tự
do
trong
nước
và
tiếp
tục
tái
bám
vào
tôm
vừa
lột
xong.
Thông
thường,
khi
tôm
bị
các
sinh
vật
bám
chứng
tỏ
tình
trạng
ao
nuôi
xấu,
nước
dơ,
nhiều
khí
độc
và
chất
hữu
cơ
vậy
nên
trong
xử
lý
cần
coi
trọng
cải
tạo
chất
lượng
nước
thay
vì
kích
lột
cho
tôm.
Lưu
ý
rằng
lột
xác
là
quá
trình
tốn
hao
năng
lượng,
suy
giảm
nguồn
sống
và
dễ
bị
tấn
công
bởi
kẻ
thù.
Tôm
đen
mang
thường
kiệt
sức
rất
nhanh
và
không
có
sức
chống
chịu
áp
lực
môi
trường
như
tôm
khỏe
sau
khi
lột
xác.
Nếu
tôm
bị
kích
thích
lột
xác
trong
điều
kiện
nước
xấu
sẽ
rất
yếu
và
dễ
nhiễm
các
bệnh
khác.
Có
thể
xử
lý
tình
trạng
tôm
nhiễm
ngoại
ký
sinh
như
sau:
-
Tiến
hành
cắt
giảm
lượng
ăn,
thay
bớt
nước
(nếu
có
thể).
-
Diệt
khuẩn
trong
nước
và
diệt
ngoại
kí
sinh
(dùng
Formalin
(25
lít/1000
m3)
hoặc
BKC
(1
–
2
lít/1000
m3).
Có
thể
lập
lại
sau
vài
ngày
nếu
mật
độ
ngoại
sinh
vật
bám
trên
tôm
chưa
giảm.
-
Nếu
đáy
dơ,
đen,
nhiều
bùn
nhão
thì
xử
lý
thêm
oxy
viên
1
–
2
kg/1000
m2 vào
ban
ngày,
trong
vài
ngày
liên
tục
để
oxy
hóa
nền
đáy.
-
Sau
cùng
xử
lý
men
–
vi
sinh
liều
cao
và
thường
xuyên
nhằm
cải
thiện
tình
trạng
ao
nuôi.
Tốt
nhất
là
nên
kiểm
tra
tôm
thường
xuyên
và
điều
trị
ngay
từ
giai
đoạn
1
(vài
con
ngoại
kí
sinh/tôm).