Allicin
được
xác
định
như
là
phân
tử
dược
phẩm
hoạt
động
chính
được
tìm
thấy
trong
tỏi.
Tuy
nhiên,
thời
gian
tồn
tại
của
nó
rất
ngắn
khi
nó
phản
ứng
với
các
protein
xung
quanh.
Allicin
được
lấy
từ
acid
amin
gọi
là
allicin
là
một
tiền
chất
ổn
định
sẽ
được
chuyển
đổi
sang
allicin
bởi
hoạt
động
của
enzyme
allinase
có
trong
tép
tỏi.
Bên
cạnh
đặc
tính
kháng
khuẩn
của
allicin,
nó
cũng
có
tác
dụng
điều
hòa
miễn
dịch.
Thử
nghiệm
hiệu
quả
điều
trị
của
tỏi
trên
tôm
Vi
khuẩn
và
nấm
Sau
khi
nhiều
nghiên
cứu
các
chi
tiết
về
tác
dụng
thuốc
kháng
sinh
của
chúng,
nên
được
thực
hiện
bằng
cách
xác
định
nồng
độ
ức
chế
tối
thiểu
(MIC)
trong
việc
so
sánh
với
những
thuốc
kháng
sinh
khác
hiện
đã
được
sử
dụng.
Giá
trị
nồng
độ
ức
chế
tối
thiểu
(MIC)
của
tỏi
tươi
chống
lại
bảy
chủng
vi
khuẩn
Vibrio
được
xác
định
bởi
phương
pháp
khuếch
tán
đĩa
so
với
vi
khuẩn
tiêu
chuẩn;
V.cholerae
ATCC
14.035
và
E.
coli
ATCC
25.922.
Điều
đó
cho
thấy
tính
diệt
khuẩn
mạnh
chống
lại
tất
cả
bảy
chủng
những
vi
khuẩn
đã
thử
nghiệm
và
đã
đưa
ra
0,156-0,312
mg/ml
của
các
giá
trị
nồng
độ
ức
chế
tối
thiểu
thể
hiện
trong
Bảng
1
(Montira
&
CTV,
2005).
Các
chủng
vi
khuẩn |
Nồng
độ
ức
chế
tối
thiểu
(MIC,
mg/ml) |
V.
harveyi |
0,156 |
V.
palahaemolyticus |
0,312 |
V.
damsel |
0,156 |
V.
alginolyticus |
0,312 |
V.
vulnificus |
0,156 |
V.
pelagius
II |
0,156 |
V.
minicus |
0,156 |
V.
cholera
ATCC
14035 |
0,156 |
E.
coli
ATCC
259223 |
0,312 |
Nấm
&
Virus
Tỏi
đã
được
báo
cáo
là
có
đặc
tính
chống
nấm
(Yoshida
&
những
người
khác,
1987)
và
kháng
virus
(Weber
&
những
người
khác,
1992).
Chiết
xuất
từ
tỏi
tươi
đã
được
chứng
minh
cho
hiệu
quả
của
nó
trong
ống
nghiệm
diệt
virus,
chống
lại
sự
lây
nhiễm
virus
ở
loài
người.
Tuy
nhiên,
không
có
nhiều
sự
ảnh
hưởng
của
tỏi
được
nghiên
cứu
trong
loài
tôm.
Bởi
vì
nhiễm
virus
là
vấn
đề
lớn
đối
với
việc
nuôi
tôm,
do
đó
kết
quả
diệt
virus
của
tỏi
trong
loài
tôm
thu
hút
việc
nghiên
cứu
trong
tương
lai.
Ký
sinh
và
sinh
vật
đơn
bào
Chutchawanchaipan
&
ctv
(2004)
đã
báo
cáo
hiệu
quả
của
việc
xay
tỏi
tươi
để
giảm
số
lượng
ký
sinh
trùng
gregarines
(một
loại
ký
sinh
trùng
gây
bệnh
đường
ruột
trên
tôm)
từ
ruột
của
tôm
sú.
10gr
tỏi
tươi
xay
đã
được
trộn
với
1kg
thức
ăn
công
nghiệp,
được
tẩm
với
20ml
chitosan,
và
cho
tôm
ăn
ở
3
ao
đất
trong
5
tuần.
Tôm
được
lấy
mẫu
trước
bắt
đầu
cho
ăn
chế
độ
ăn
uống
có
chứa
tỏi
và
mỗi
tuần
sau
khi
bắt
đầu
cho
ăn
tỏi
xay
kết
hợp
khẩu
phần
ăn,
mỗi
lần
20
con,
để
kiểm
tra
số
lượng
gregarines
trong
ruột
của
tôm
nuôi
sử
dụng
kỹ
thuật
mô.
Số
lượng
tôm
nhiễm
gregarines
giảm
100%
sau
khi
ăn
tỏi
theo
chế
độ
ăn
uống
trong
4
tuần
liên
tục.
Tỷ
lệ
tôm
nhiễm
Gregarines
trước
và
sau
khi
cho
ăn
tỏi
xay
kết
hợp
chế
độ
ăn:
Thời
gian
(tuần) |
Tỷ
lệ
tôm
nhiễm
ký
sinh
trùng
Gregarines
(%) |
Ao
1 |
Ao
2 |
Ao
3 |
Trước
khi
bổ
sung
tỏi
vào
thức
ăn |
100 |
90 |
85 |
100 |
100 |
90 |
1 |
30 |
65 |
40 |
2 |
10 |
15 |
10 |
3 |
0 |
15 |
15 |
4 |
0 |
0 |
0 |
5 |
0 |
0 |
0 |
Hình
sự
xuất
hiện
của
ký
sinh
trùng
Gregarines
trong
ruột
tôm
sau
khi
cho
ăn
tỏi
2
tuần
|
A.
Gregarines
xuất
hiện
trong
ruột
giữa
của
tôm
trước
khi
cho
ăn
tỏi
kết
hợp
chế
độ
ăn. |
|
B.
Gregarines
trong
ruột
giữa
của
tôm
trong
2
tuần
sau
khi
cho
ăn
tỏi
xay
kết
hợp
chế
độ
ăn. |
|
C.
Vắng
mặt
gregarines
trong
ruột
giữa
của
tôm
ở
4
tuần
sau
khi
cho
ăn
tỏi
xay
kết
hợp
chế
độ
ăn. |
Miễn
dịch
Trong
ống
nghiệm,
thực
bào
là
một
trong
những
phương
pháp
sàng
lọc
để
phát
hiện
các
hợp
chất
miễn
dịch
(Wagner,
1990).
Ảnh
hưởng
của
tỏi
tươi
chiết
xuất
trong
phạm
vi
thực
bào
của
các
huyết
bào
của
tôm
sú
(P.
monodon)
đã
được
kiểm
tra
trong
ống
nghiệm
ở
Viện
nghiên
cứu
Coastal
Aquatic
Animal
health
Rearch
Institute.
Phạm
vi
thực
bào
cao
hơn
đã
được
tìm
thấy
trong
huyết
bào
được
điều
trị
bằng
chiết
xuất
tỏi
(78,7%)
so
với
việc
kiểm
soát
các
tế
bào
mà
không
ủ
bệnh
trước
với
chiết
xuất
từ
tỏi
(64,1%)
thể
hiện
trong
hình:
Trong
ống
nghiệm,
nghiên
cứu
tác
động
của
chiết
xuất
tỏi
tươi
vào
hoạt
động
thực
bào
của
các
huyết
bào
tôm
được
tiến
hành
bằng
cách
cho
tôm
ăn
với
khẩu
phần
ăn
có
chứa
liều
lượng
khác
nhau
của
chiết
xuất
tỏi
tươi
trước
khi
lấy
mẫu
để
xác
định
hoạt
động
thực
bào
ở
mức
7
và
14
ngày
sau
ăn
(trong
hình
đầu
tiên).
Các
hoạt
động
thực
bào
của
tôm
cho
ăn
tỏi
bổ
sung
chế
độ
ăn
cao
hơn
so
với
kiểm
chứng
cho
thấy
hiệu
quả
của
tỏi
trong
việc
tăng
cường
các
phản
ứng
miễn
dịch
tế
bào
của
tôm.
Kết
luận
Tỏi
có
khả
năng
để
xử
lý
các
vấn
đề
về
ký
sinh
trùng
gregarines
trong
tôm
nuôi,
tuy
nhiên
hiệu
quả
của
nó
trên
ký
sinh
trùng
và
sinh
vật
đơn
bào
khác
là
cần
thiết
để
được
kiểm
tra
theo
cách
thức
giống
như
đã
thực
hiện
cho
các
gregarines
để
làm
sáng
tỏ
hơn
nữa
tiềm
năng
của
tỏi.
Từ
việc
nghiên
cứu
trong
ống
nghiệm,
tỏi
có
tiềm
năng
chống
khuẩn
chống
lại
vi
khuẩn
Vibrio
spp
mà
chúng
là
nguyên
nhân
chính
gây
ra
các
bệnh
vi
khuẩn
của
tôm
biển.
Tác
dụng
của
tỏi
trong
điều
trị
bệnh
do
Virus
trên
cần
được
nghiên
cứu
thêm
nữa.
Ứng
dụng
tỏi
như
phương
pháp
điều
trị
thay
thế
trên
tôm
biển.
(Nhóm
tác
giả:
J.
Kasornchandra,
W.
Chutchawanchaipan,
M.
Thavornyutikarn,
J.
Puangkaew
-
Viện
nghiên
cứu
sức
khỏe
động
vật
thủy
sản
ven
biển
Thái
Lan).