Việc
đảm
bảo
tỷ
lệ
sống
của
tôm
giai
đoạn
mới
thả
là
rất
quan
trọng,
ảnh
hưởng
đến
cả
quá
trình
sinh
trưởng,
phát
triển,
năng
suất
sau
này
của
tôm
nuôi.
Vì
vậy,
cần
điều
chỉnh
các
yếu
tố
môi
trường
ở
mức
tối
ưu
khi
thả
giống.
Màu
nước,
độ
trong
Màu
nước
và
độ
trong
là
hai
chỉ
tiêu
đánh
giá
tình
trạng
môi
trường
sống
của
tôm
nuôi;
đồng
thời
là
căn
cứ
để
theo
dõi
và
điều
chỉnh
chất
lượng
nước
phù
hợp
tôm
giống
khi
thả.
Nếu
độ
trong
quá
cao
(>
50
cm),
ao
nuôi
sẽ
rất
nghèo
dinh
dưỡng,
không
đủ
lượng
thức
ăn
tự
nhiên
cho
tôm.
Hơn
nữa,
chất
lượng
nước
không
ổn
định,
pH
thấp,
rong
và
tảo
đáy
phát
triển
mạnh,
tôm
giống
dễ
bị
sốc
và
chậm
lớn.
Nếu
độ
trong
quá
thấp
do
mật
độ
tảo
dày
dễ
làm
cho
độ
pH
trong
ao
nuôi
tăng
cao
(pH
>
9)
vào
buổi
trưa
và
chiều.
Khi
thả
tôm
giống,
độ
trong
của
nước
thấp
do
mật
độ
tảo
lớn,
chu
kỳ
nở
hoa
của
tảo
trong
ao
nuôi
sẽ
xảy
ra
sau
khi
phát
triển
đến
đỉnh
sau
khi
nuôi
trong
thời
gian
ngắn.
Cần
có
biện
phắp
khắc
phục
để
giảm
mật
độ
tảo
trước
khi
thả
giống.
Cùng
với
độ
trong,
màu
nước
là
yếu
tố
vật
lý
người
nuôi
cần
quan
tâm
trước
khi
thả
giống.
Nên
thả
giống
khi
thấy
nước
có
màu
xanh
nõn
chuối
hay
màu
nâu
và
độ
trong
30
-
40
cm.
pH
Có
thể
thả
tôm
giống
khi
pH
7,5
-
8,5
(tốt
nhất
là
7,8
-
8),
dao
động
giữa
sáng
và
chiều
không
quá
0,5.
Khi
pH
quá
cao
hoặc
quá
thấp
so
với
mức
thích
hợp
sẽ
ảnh
hưởng
lớn
đến
sự
duy
trì
cân
bằng
pH
của
máu
trong
cơ
thể
tôm,
rất
dễ
gây
sốc
cho
tôm
giống,
tôm
giống
chết
khi
pH
<
4
và
pH
>
11,
ở
mức
pH
4
-
7
và
9
-
11
tôm
rất
chậm
lớn,
dễ
cảm
nhiễm
bệnh.
Hơn
nữa
pH
thấp
có
thể
làm
tổn
thương
phần
phụ,
mang,
ảnh
hưởng
đến
quá
trình
lột
xác
và
cứng
vỏ.
Ngoài
ra
còn
làm
tăng
khả
năng
gây
độc
của
khí
H2S
và
làm
giảm
khả
năng
vận
chuyển
oxy
của
máu,
làm
cho
mang
tôm
tiết
ra
nhiều
chất
nhầy,
giảm
sức
đề
kháng
của
tôm.
Khi
pH
tăng
cao
(>
9)
sẽ
làm
cho
các
tế
bào
ở
mang
và
các
mô
của
tôm
bị
phá
hủy;
đồng
thời
làm
tăng
tính
độc
của
khí
amoniac
(NH3)
trong
môi
trường
nước.
Người
dân
xuống
giống
tôm
nuôi
-
Ảnh:
Phan
Thanh
Độ
kiềm
Độ
kiềm
giữ
vai
trò
rất
quan
trọng
trong
việc
duy
trì
hệ
đệm
của
hệ
sinh
thái
ao
nuôi.
Đây
được
xem
là
một
trong
những
chỉ
tiêu
quan
trọng
có
tác
dụng
làm
giảm
sự
biến
động
của
pH
nước,
hạn
chế
tác
hại
các
chất
độc
có
sẵn
trong
nước
tránh
gây
sốc
bất
lợi
cho
tôm
nuôi.
Độ
kiềm
thích
hợp
trong
nuôi
tôm
là
80
-
120
mg/l,
cũng
là
mức
thích
hợp
khi
thả
tôm
giống.
Khi
độ
kiềm
thấp
hơn
mức
này
thì
pH
dễ
biến
động,
tôm
bị
mềm
vỏ;
nhưng
khi
độ
kiềm
cao
quá
thì
tôm
khó
lột
xác.
Nhiệt
độ
Nhiệt
độ
thích
hợp
cho
tôm
là
28
-
320C;
nhưng
chỉ
nên
thả
giống
khi
nhiệt
độ
dưới
300C,
lúc
sáng
sớm
hoặc
chiều
mát.
Tôm
sú
là
động
vật
biến
nhiệt
(nhiệt
độ
cơ
thể
luôn
thay
đổi
theo
nhiệt
độ
môi
trường
sống),
chúng
không
có
khả
năng
ổn
định
nhiệt
độ
trong
cơ
thể;
sự
thay
đổi
đột
ngột
của
nhiệt
độ
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
khả
năng
bắt
mồi,
làm
mất
cân
bằng
pH
trong
máu,
thay
đổi
chức
năng
điều
hoà
áp
suất
thẩm
thấu,
làm
rối
loạn
hô
hấp
và
quá
trình
chuyển
hoá
vật
chất
bên
trong
cơ
thể
của
nó,
sinh
lý
bị
rối
loạn
biểu
hiện
bên
ngoài
là
cong
thân,
đục
cơ,
tôm
ít
hoạt
động,
nằm
im
và
tăng
cường
hô
hấp,
rất
dễ
nhiễm
bệnh,
rủi
ro
sẽ
rất
lớn.
Khi
thả
tôm,
cần
thả
cả
bao
tôm
giống
xuống
ao
nuôi
15
-
20
phút
khi
nhiệt
độ
trong
bao
vận
chuyển
giống
bằng
với
nhiệt
độ
ngoài
môi
trường
nuôi.
Sau
đó
bắt
đầu
mở
bao
tôm
giống
ra,
tạt
nước
ngoài
môi
trường
vào
bao,
rồi
từ
từ
thả
tôm
giống
ra
ngoài
ao
nuôi.
Độ
mặn
Độ
mặn
thích
hợp
nhất
cho
tôm
sú
là
8
-
20‰.
Độ
mặn
giữ
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
điều
hòa
áp
suất
thẩm
thấu
giữa
nguyên
sinh
chất
của
tôm
sú
và
nước.
Độ
mặn
vượt
ra
ngoài
giới
hạn
thích
ứng
của
tôm
nuôi
sẽ
gây
ra
các
phản
ứng
sốc
cho
cơ
thể,
làm
giảm
khả
năng
kháng
bệnh
của
chúng.
Độ
mặn
còn
ảnh
hưởng
đến
độ
kiềm
và
độ
pH,
khả
năng
sinh
trưởng
của
tôm.
Đối
với
những
vùng
có
độ
mặn
cao
hơn
25‰
không
phù
hợp
cho
phát
triển
của
tôm
nuôi
và
dễ
xảy
ra
dịch
bệnh,
cần
chủ
động
bổ
sung
nguồn
nước
ngọt
để
có
độ
mặn
phù
hợp
trước
khi
thả
tôm
giống.
Vùng
không
có
điều
kiện
thì
hạn
chế
thả
tôm
giống
hoặc
thả
vào
thời
điểm
đón
mùa
mưa.
Trong
ao
nuôi
tôm,
độ
mặn
có
thể
tăng
nhanh
do
hiện
tượng
bốc
hơi
nước
(thường
vào
mùa
khô)
hoặc
có
thể
giảm
cục
bộ
do
mưa
(thường
vào
mùa
mưa).
Vì
vậy
trước
khi
thả
tôm
giống
cần
đo
độ
mặn
để
lên
kế
hoạch
thuần
tôm
cho
phù
hợp.
Ôxy
hòa
tan
Hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
ảnh
hưởng
rõ
rệt
đến
tỷ
lệ
sống
của
tôm
nuôi
ngay
trong
10
ngày
đầu.
Sau
khi
thả
giống,
tôm
thường
bị
yếu
hơn
do
vận
chuyển
và
phải
thích
nghi
môi
trường
sống
mới.
Vì
vậy,
cần
chạy
máy
quạt
nước
trước
khi
thả
tôm
giống
khoảng
8
giờ,
đảm
bảo
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
được
bão
hòa,
và
tắt
quạt
nước
trước
khi
thả
tôm
1
giờ
mà
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
lúc
thả
tối
thiểu
đạt
4
mg/lít.
Hàm
lượng
khí
độc
Trước
khi
thả
tôm
giống
cần
đo
hàm
lượng
khí
độc
trong
ao
nuôi.
Chỉ
thả
giống
khi
hàm
lượng
H2S
<
0,01
mg/lít
và
NH3
<
0,1
mg/lít.
Khi
hàm
lượng
khí
độc
cao
quá
mức
cho
phép,
dễ
gây
sốc
cho
tôm
giống,
thậm
chí
có
thể
gây
chết
hàng
loạt.
>>
Để
có
các
yếu
tố
môi
trường
thích
hợp
nhất
cho
tôm
sú,
cần
thả
giống
đúng
mùa
vụ,
thiết
kế,
cải
tạo
và
chuẩn
bị
nước
đúng
kỹ
thuật.
Nếu
không
làm
tốt
các
khâu
này,
sẽ
rất
khó
cho
việc
quản
lý
ao
nuôi
khi
đã
thả
giống.
Thủy
sản
Việt
Nam