Độ
trong,
độ
đục
cũng
là
một
trong
những
yếu
tố
không
kém
phần
quan
trọng
cần
kiểm
soát
trong
ao
nuôi
thủy
sản.
Nhằm
tránh
được
các
tác
động
xấu
của
nó
lên
sức
khỏe
động
vật
thủy
sản,
cũng
như
môi
trường
ao
nuôi.
Nguồn
gốc
Độ
đục
của
nước
liên
quan
đến
số
lượng
của
vật
chất
nằm
lơ
lửng
trong
nước,
là
khả
năng
cản
những
tia
nắng
mặt
trời
và
độ
trong
của
nước
là
khả
năng
cho
ánh
sáng
xuyên
qua
nước.
Độ
đục
có
thể
là
kết
quả
từ
nhiều
nguồn
khác
nhau.
Có
thể
do
nguồn
nước,
nước
rửa
trôi,
bụi
phóng
xạ
từ
không
khí.
Hoặc
do
chuyển
động
của
dòng
nước,
của
tôm
cá,
do
thức
ăn
thừa,
hay
chất
thải
của
tôm
cá
nuôi,
sự
phát
triển
của
tảo…
Độ
đục
sẽ
khác
nhau
phụ
thuộc
vào
vị
trí
ao,
nguồn
cấp
nước,
đối
tượng
nuôi
ở
những
ao
nuôi
khác
nhau.
Độ
trong
nước
ao
nuôi
chủ
yếu
phụ
thuộc
vào
số
lượng
và
đặc
tính
khối
chất
cái
(seston)
trong
nước,
đó
là
tập
hợp
các
sinh
vật
và
các
thể
vẩn
lơ
lửng
trong
nước.
Kiểm
soát
nước
ao
nuôi
thủy
sản
để
giảm
chi
phí,
tăng
hiệu
quả
kinh
tế
Tác
động
Độ
đục
quá
cao
(độ
trong
thấp)
sẽ
có
những
tác
động
bất
lợi
cho
hệ
sinh
vật
dưới
nước
và
sức
khỏe
chung
của
cả
ao,
gây
giảm
năng
suất
ao
nuôi.
Độ
đục
cao
làm
giảm
ánh
sáng
mặt
trời
xâm
nhập
vào
trong
nước
qua
đó
ức
chế
sự
tăng
trưởng
của
thực
vật
phù
du,
giảm
sản
xuất
ôxy
trong
ao.
Khi
độ
đục
quá
cao,
sẽ
làm
cho
cá
hô
hấp
khó
khăn
do
lượng
phù
sa
lắng
tụ
trên
nền
đáy,
bao
phủ
trên
mang
cá,
cường
độ
bắt
mồi
giảm.
Cá
sẽ
bị
thiếu
ôxy
và
nổi
đầu
vào
lúc
sáng
sớm.
Điều
này
có
thể
dẫn
đến
tỷ
lệ
tăng
trưởng
kém,
nếu
bùn
nhiều
quá
mức
có
thể
gây
kích
ứng
mang
cá,
dập
trứng
cá
và
gây
chết
ngạt
ở
các
cộng
đồng
động
vật
thủy
sinh.
Ở
tôm,
nếu
độ
đục
cao
có
thể
gây
ra
chênh
lệch
nhiệt
độ
và
phân
tầng
ôxy
hòa
tan
trong
ao
nuôi.
Nó
cũng
có
thể
gây
ra
tắc
nghẽn
mang
tôm
hoặc
gây
chấn
thương
trực
tiếp
đến
các
mô
của
tôm.
Ngược
lại,
nếu
độ
trong
quá
cao,
nước
nghèo
dinh
dưỡng,
sinh
vật
phù
du
kém
phát
triển
sẽ
hạn
chế
thành
phần
thức
ăn
tự
nhiên
của
cá,
tôm
làm
giảm
năng
suất
nuôi
trong
ao.
Đối
với
các
ao
nuôi
nước
quá
trong
sẽ
làm
cá
nuôi
trở
nên
nhạy
cảm,
sợ
và
bỏ
ăn.
Đặc
biệt,
với
các
ao
ương
giống
sẽ
làm
giảm
tỷ
lệ
sống
trong
khi
ương
một
cách
đáng
kể
do
thiếu
hụt
lượng
thức
ăn
tự
nhiên.
Độ
trong
thích
hợp
cho
các
ao
nuôi
cá
20
-
30
cm,
đối
với
ao
nuôi
tôm
30
-
45
cm.
Độ
trong
của
ao
được
xác
định
qua
một
dụng
cụ
là
đĩa
Secchi
có
đường
kính
20
cm.
Độ
đục
được
đo
bằng
độ
hấp
thụ
ánh
sáng
hoặc
hàm
lượng
tổng
chất
rắn
lơ
lửng.
Hoặc
theo
kinh
nghiệm,
có
thể
đo
độ
trong
bằng
cách
cho
cánh
tay
xuống
ao,
sao
cho
nước
ngập
đến
khuỷu
tay
rồi
quan
sát,
nếu
không
nhìn
thấy
bàn
tay
là
nước
đạt
độ
trong
tương
đối
thích
hợp.
Kiểm
soát
và
quản
lý
Quản
lý
độ
đục
từ
nguồn
nước:
Chứa
nước
đục
trong
ao
để
lắng;
Chọn
nguồn
nước
cấp
thích
hợp;
Khoanh
nguồn
nước
đọng
để
tránh
gây
xói
mòn
bờ
ao.
Quản
lý
độ
đục
bên
trong
ao:
Nếu
độ
đục
nước
cao,
phương
pháp
đơn
giản
là
tiến
hành
thay
nước.
Tuy
nhiên,
cần
lựa
chọn
thời
điểm
thay
nước
thích
hợp,
nên
cấp
nước
vào
lúc
nước
sông
đang
lớn,
tránh
thời
điểm
lũ
đang
về.
Đồng
thời,
có
thể
loại
bỏ
hạt
lơ
lửng
trong
ao
bằng
muối
vô
cơ
như
nhôm
sunfat
(Al2
(SO4)3)
để
tạo
kết
tủa
và
lắng
tụ.
Hay
sử
dụng
thực
vật
phù
du
như
hạt
nhân
cho
sự
kết
đông,
bón
phân
giúp
kích
thích
sự
phát
triển
của
các
thực
vật
nổi,
từ
đó
các
tế
bào
thực
vật
lấy
đi
những
hạt
đất
sét.
Ngược
lại,
nếu
độ
trong
của
nước
quá
cao,
người
nuôi
cần
kiểm
tra
lại
pH
trong
ao
nuôi.
Nếu
pH
thấp
thì
phải
bón
thêm
vôi,
kết
hợp
bón
phân
và
sử
dụng
các
hóa
chất
gây
màu
nước
nhằm
cung
cấp
dinh
dưỡng,
kích
thích
tảo
phát
triển
làm
giảm
độ
trong
của
nước.
Đồng
thời,
cần
gom
tụ
chất
thải
và
tránh
khuấy
động
trong
ao,
loại
bỏ
chất
thải
ra
khỏi
ao
nuôi.
Song
song
với
đó
là
vẫn
đề
quản
lý
tốt
thức
ăn
và
màu
nước
trong
ao
nuôi.
>>
Nếu
ao
nuôi
quản
lý
tốt
được
các
yếu
tố
môi
trường,
gây
ra
ít
biến
động
(trong
đó
có
độ
đục,
độ
trong)
sẽ
làm
cho
động
vật
thủy
sản
không
bị
stress,
ít
dịch
bệnh,
tiết
kiệm
được
chi
phí
nuôi
và
tăng
hiệu
quả
kinh
tế.
Thủy
sản
Việt
Nam