Trong
thực
tiễn
sản
xuất,
nhiều
hộ
nuôi
tôm
theo
đuổi
mục
tiêu
sản
lượng
cao
trong
khi
đầu
tư
không
đúng
mức
dẫn
đến
tôm
phát
triển
chậm,
bệnh
nhiều,
tỷ
lệ
hao
hụt
cao.
Chất
lượng
giống
thấp
Chất
lượng
tôm
giống
đóng
vai
trò
tiên
quyết
đến
sự
thành
bại
của
vụ
nuôi,
nhưng
đến
nay,
nhiều
người
vẫn
chủ
quan
trong
khâu
lựa
chọn
tôm
giống
chất
lượng
đưa
vào
sản
xuất.
Với
những
lý
do
ngại
liên
hệ
với
những
cơ
sở
sản
xuất
giống
uy
tín,
phải
chờ
đợi
giống,
và
giá
thành
đắt
hơn
2
-
3
lần
so
với
giá
tôm
đại
trà.
Để
tránh
thiệt
hại
do
tôm
giống
kém
chất
lượng,
cần
lựa
chọn
tôm
giống
có
ngoại
hình
đẹp,
khỏe
mạnh,
ở
những
địa
chỉ
uy
tín,
đã
được
kiểm
dịch.
Nếu
có
điều
kiện
thì
nên
kiểm
tra,
nếu
âm
tính
với
những
mầm
bệnh
nguy
hiểm
thì
đưa
vào
thả
nuôi.
Nuôi
với
mật
độ
quá
cao
Mật
độ
của
tôm
nuôi
ảnh
hưởng
trực
tiếp
đến
tăng
trưởng
của
tôm
nuôi
và
cỡ
thu
hoạch.
Tôm
nuôi
ở
mật
độ
thấp
có
tốc
độ
tăng
trưởng,
tỷ
lệ
sống
cao
hơn
so
với
nuôi
ở
mật
độ
cao.
Khi
nuôi
tôm
với
mật
độ
quá
cao
mà
không
đảm
bảo
các
yếu
tố
kỹ
thuật
sẽ
dẫn
đến
hiện
tượng
tôm
chậm
lớn,
hệ
số
chuyển
hóa
thức
ăn
cao,
hao
hụt
nhiều
do
thiếu
ôxy
hòa
tan,
là
yếu
tố
có
thể
làm
cho
vụ
nuôi
bị
thất
bại
.
Nuôi
tôm
thẻ
chân
trắng
thông
thường
nên
nuôi
với
mật
độ
60
-
80
con/m2,
tôm
sú
nuôi
với
mật
độ
15
-
25
con/m2.
Không
tuân
thủ
kỹ
thuật
nuôi
Việc
định
hướng
quy
trình
kỹ
thuật
trong
nuôi
tôm
là
việc
làm
hết
sức
quan
trọng,
quyết
định
rất
lớn
đến
khả
năng
tự
kháng
bệnh
của
tôm
và
tác
động
đến
môi
trường
nuôi.
Để
hạn
chế
những
sự
cố
có
thể
xảy
ra
trong
quá
trình
nuôi,
ảnh
hưởng
đến
sức
khỏe
tôm,
cần
tuân
thủ
thực
hiện
các
khâu
kỹ
thuật
như
chuẩn
bị,
cải
tạo
ao,
phương
pháp
cho
ăn,
phòng
bệnh
chủ
động
cho
tôm
nuôi…
Chế
độ
dinh
dưỡng
không
được
quan
tâm
đúng
mức
Trong
môi
trường
công
nghiệp
với
mật
độ
cao,
hàm
lượng
ôxy
hòa
tan
khó
đảm
bảo
tối
ưu
thì
việc
hỗ
trợ
tiêu
hóa
và
quá
trình
hấp
thụ
thức
ăn
rất
quan
trọng,
vì
nó
quyết
định
được
hệ
số
chuyển
đổi
thức
ăn,
quyết
định
chi
phí
nuôi
tôm.
Thực
tế
áp
dụng
cho
thấy,
việc
bổ
sung
thêm
men
tiêu
hóa,
vi
sinh
sẽ
tăng
quá
trình
chuyển
hóa
và
hấp
thụ
thức
ăn.
Cùng
đó,
một
số
sản
phẩm
khoáng
vi
lượng
và
các
loại
vitamin
có
tác
dụng
tăng
cường
sức
đề
kháng
tự
nhiên
cho
tôm,
là
giải
pháp
hữu
hiệu
giúp
phòng
bệnh
cho
tôm
nuôi.
Tuy
nhiên,
hiện
nhiều
người
nuôi
vẫn
không
chú
ý
đến
nhu
cầu
và
chế
độ
bổ
sung
các
hàm
lượng
dinh
dưỡng
cho
tôm.
Lam
dụng
vôi
Việc
sử
dụng
vôi
trong
nuôi
tôm
là
rất
cần
thiết
trong
cải
tạo
ao,
duy
trì
chất
lượng
nước
trong
ao
hoặc
để
khắc
phục
hiện
tượng
pH
xuống
thấp.
Tuy
nhiên,
cần
tuân
thủ
đúng
liều
lượng,
nếu
sử
dụng
quá
nhiều
xuống
ao,
hàm
lượng
Ca2+
tăng
làm
cho
quá
trình
sinh
hoá
và
hoá
lý
trong
ao
giảm
dẫn
đến
là
giảm
hàm
lượng
vi
sinh
vật
có
lợi,
tôm
kém
phát
triển.
Khi
cải
tạo
ao,
lượng
vôi
bón
phụ
thuộc
vào
độ
pH
đất.
pH
đất
từ
4,5
-
5,5,
bón
với
lượng
1,5
-
2,5
tấn/ha;
pH
từ
5,1
-
6,
bón
vôi
với
lượng
1
-
1,5
tấn/ha;
pH
từ
6,1
-
6,5,
bón
vôi
với
lượng
0,5
-
1
tấn/ha.
Trong
quá
trình
nuôi,
để
duy
trì
chất
lương
nước,
định
kỳ
10
ngày/lần,
bón
vôi
vào
lúc
21
-
22
giờ,
liều
lượng
10
-
20
kg/1.000
m3
nước,
tùy
theo
tình
hình
thực
tế
môi
trường
ao
nuôi
để
điều
chỉnh,
khi
pH
thấp
hơn
7,5
cần
bón
vôi
CaCO3
hoặc
Dolomit
với
liều
15
-
20
kg/1.000
m3
nước.
Theo
Thủy
sản
Việt
Nam