Từ
giữa
năm
2014,
tình
trạng
tôm
nuôi
bị
chậm
lớn
diễn
ra
tại
nhiều
vùng
nuôi
tôm
Việt
Nam,
gây
thiệt
hại
đáng
kể.
Tôm
chậm
lớn
do
nhiều
nguyên
nhân,
trong
đó
cần
kể
nhiễm
vi
bào
tử
trùng
Enterocytozoon
hepatopenaei
(EHP).
Đặc
điểm
bệnh
EHP
Triệu
chứng
của
bệnh
EHP
trên
tôm
thẻ
chân
trắng
không
rõ
ràng.
Khi
tôm
giống
bị
nhiễm
EHP,
thả
nuôi
trong
tháng
đầu
tiên
thường
vẫn
phát
triển
bình
thường;
nhưng
sau
khi
tôm
đạt
trọng
lượng
3
-
4
gram/con,
lượng
sinh
khối
tôm
trong
ao
tăng
dần
thì
tôm
cũng
chậm
lớn
dần
rồi
có
thể
dừng
lớn
hẳn.
Tôm
nuôi
90
-
100
ngày
tuổi
vẫn
có
thể
chỉ
đạt
cỡ
4
-
5
gram/con.
Tôm
chậm
lớn
ở
đây
do
vi
khuẩn
EHP
ký
sinh
trong
tế
bào
gan
tuỵ
tôm.
Vi
bào
tử
trùng
này
ký
sinh
nội
bào
và
sử
dụng
dinh
dưỡng,
năng
lượng
dự
trữ
trong
gan
tụy,
khiến
tôm
nuôi
không
đủ
dinh
dưỡng
cho
tăng
trưởng
và
lột
xác.
Tôm
càng
ăn
nhiều
thức
ăn
thì
phân
thải
ra
càng
nhiều,
trong
khi
bệnh
EHP
lây
qua
đường
phân
-
miệng,
không
cần
ký
chủ
trung
gian.
Có
nhiều
loại
vi
bào
tử
trùng
gây
bệnh
cho
tôm,
đòi
hỏi
phải
có
ký
chủ
trung
gian,
như
Agmasoma
đòi
hỏi
có
ký
chủ
trung
gian
trong
vòng
đời.
Tuy
nhiên,
EHP
có
thể
lây
trực
tiếp
từ
con
này
sang
con
khác.
Do
đó,
có
quan
ngại
rằng
cá
rô
phi
trong
hệ
thống
nuôi
kết
hợp
là
nguồn
gây
bệnh
EHP
theo
tôi
là
chưa
đủ
cơ
sở
vững
chắc.
Chúng
tôi
có
làm
nghiên
cứu
kiểm
tra
mẫu
cá
rô
phi
của
nhiều
ao
nuôi
trong
hệ
thống
kết
hợp
cũng
như
cá
rô
phi
giống
nhưng
vẫn
chưa
thấy
trường
hợp
nào
cá
rô
phi
có
nhiễm
EHP.
Ngoài
ra,
nếu
ta
đưa
cá
giống
rô
phi
từ
các
trại
giống
từ
vùng
nước
ngọt
về
nuôi
trong
hệ
thống
nước
lợ
thì
nguy
cơ
gây
bệnh
cho
tôm
từ
mầm
bệnh
có
trên
cá
rô
phi
là
rất
thấp.
Tôm
bị
bệnh
EHP
Chẩn
đoán
Phương
pháp
mô
học
Đối
với
bệnh
EHP
thì
việc
chẩn
đoán
bệnh
sử
dụng
phương
pháp
mô
học
rất
khó
khăn,
do
biến
đổi
mô
học
trên
gan
tụy
không
rõ
ràng.
Phương
pháp
sinh
học
phân
tử
Đây
là
phương
pháp
có
thể
phát
hiện
ra
mầm
bệnh
vi
bào
tử
trùng.
Nhóm
nghiên
cứu
của
chúng
tôi
cùng
Gs.
Lightner
đã
có
phương
pháp
phát
hiện
mầm
bệnh
EHP
với
kỹ
thuật
PCR
và
real-time
PCR.
Nhóm
nghiên
cứu
của
Gs.
Flegel
cũng
phát
triển
được
kỹ
thuật
PCR,
LAMP,
và
nested
PCR.
Bằng
kỹ
thuật
PCR,
có
thể
phát
hiện
ra
mầm
bệnh
EHP
trên
ao
nuôi
thương
phẩm.
Đối
với
trại
giống,
mầm
bệnh
có
thể
được
phát
hiện
từ
phân
tôm
bố
mẹ,
thức
ăn
tươi
sống
cho
tôm
bố
mẹ
(hàu,
mực),
từ
ấu
trùng
tôm
và
tôm
post.
Một
tỷ
lệ
cao
các
thức
ăn
tươi
(hàu,
dời,
mực…)
được
khai
thác
ở
khu
vực
Ninh
Thuận,
Khánh
Hòa
dương
tính
với
vi
bào
tử
trùng
EHP.
Việc
sử
dụng
thức
ăn
tươi
sống
đánh
bắt
tại
khu
vực
lân
cận
trại
giống
hay
vùng
nuôi
tôm
là
nguy
cơ
rất
lớn
về
an
toàn
sinh
học
và
dịch
bệnh.
Khống
chế
bệnh
Hiện
chưa
có
phương
pháp
điều
trị
đặc
hiệu.
Do
đó,
việc
kiểm
tra,
kiểm
soát
mầm
bệnh
từ
tôm
giống
hết
sức
quan
trọng.
Tôm
giống
có
thể
được
kiểm
soát
xem
có
nhiễm
EHP
bằng
phương
pháp
PCR.
Ở
trại
nuôi,
công
tác
chuẩn
bị
ao
có
vai
trò
rất
quan
trọng.
Do
EHP
có
sức
chống
chịu
tốt
đối
với
các
phương
pháp
khử
trùng
thông
thường
nên
khó
loại
mầm
bệnh
ra
khỏi
hệ
thống.
Có
nghiên
cứu
cho
rằng
EHP
có
thể
tồn
tại
sau
khi
đã
xử
lý
Chlorine
ở
100
ppm.
Có
khuyến
cáo
nên
sử
dụng
vôi
nóng
(CaO)
để
xử
lý
ao
để
có
thể
đạt
độ
pH
đáy
ao
trong
quá
trình
cải
tạo
cao
hơn
11
-
12
để
làm
chết
mầm
bệnh
EHP.
Thay
đổi
thực
hành
sản
xuất
giống
Việc
chúng
ta
hiện
tại
chỉ
kiểm
soát
các
mầm
bệnh
đã
được
OIE
đề
nghị
đối
với
tôm
biển
đã
tạo
kẽ
hở
lớn
cho
việc
kiểm
soát
mầm
bệnh
mới
xuất
hiện,
trên
cả
thế
giới.
Ở
góc
độ
trại
tôm
giống,
sự
kiểm
soát
thông
thường
với
mầm
bệnh
virus,
phải
tập
trung
hơn
nữa
công
tác
an
toàn
sinh
học
theo
hướng
tích
cực
phòng
bệnh
do
vi
khuẩn
và
ký
sinh
trùng.
Trại
giống
nên
lưu
ý
khi
nhập
tôm
bố
mẹ
nhập
khẩu
các
nước
đang
có
mầm
bệnh
EMS/AHPND
và
EHP.
Ngoài
ra,
nên
có
khu
cách
ly
và
có
sự
kiểm
soát
chặt
mầm
bệnh
do
virus,
EMS/AHPND
và
EHP
trước
khi
đưa
vào
sản
xuất.
Với
thức
ăn
tươi,
nên
kiểm
soát
kỹ
mầm
bệnh,
không
nên
sử
dụng
thức
ăn
tươi
đánh
bắt
từ
khu
vực
gần
trại
giống,
vùng
nuôi,
cho
ăn
trực
tiếp.
Việc
sử
dụng
thức
ăn
tươi
nhập
từ
các
nước
không
có
mầm
bệnh
và
không
có
nghề
nuôi
tôm
cũng
là
lựa
chọn
tốt.
Trong
hoàn
cảnh
hiện
tại,
các
trại
giống
nên
cân
nhắc
việc
thanh
trùng
thức
ăn
tươi
bằng
phương
pháp
Pasteur
hay
chiếu
xạ
Gamma,
có
thể
làm
cho
tôm
bố
mẹ
giảm
khả
năng
sinh
nhiều
trứng
và
ấu
trùng
nhưng
giúp
tăng
độ
an
toàn
đối
với
trại
giống
cũng
như
trại
nuôi
sử
dụng
nguồn
tôm
giống
này.
Ngoài
ra,
việc
kiểm
soát
mầm
bệnh
bằng
phương
pháp
PCR
nên
được
xuyên
suốt
quá
trình
sản
xuất
giống.
Ngoài
ra,
các
phương
pháp
ương
nuôi
ấu
trùng
theo
sinh
học,
vi
sinh
nên
được
ứng
dụng
để
khống
chế
các
bệnh
do
vi
khuẩn
như
EMS/AHPND.
Khi
chủ
động,
tích
cực
kiểm
soát
dịch
bệnh
thì
có
thể
kiểm
soát
được
mầm
bệnh
trong
trại
giống,
nhưng
sẽ
tăng,
có
thể
đến
25%,
trại
sản
xuất
giống
khó
chấp
nhận.
Do
đó,
phải
coi
sản
xuất
giống
sạch
bệnh
là
đầu
tư
cho
người
nuôi
tôm,
tạo
nguồn
nguyên
liệu
cho
chế
biến
thủy
sản.
Cần
có
vai
trò
nhà
nước
trong
điều
phối
hợp
tác,
chia
sẻ
rủi
ro
giữa
các
bên:
nhà
nước,
nhà
doanh
nghiệp,
nhà
nông,
nhà
khoa
học.
>>
Bệnh
EHP
được
phát
hiện
ở
Thái
Lan
năm
2006
nhưng
chưa
được
chú
ý
nhiều.
Đến
khi
xuất
hiện
dịch
bệnh
EMS/AHPND
diện
rộng
ở
châu
Á
thì
bệnh
do
EHP
gần
như
không
còn
được
nhiều
người
quan
tâm.
Tuy
nhiên,
bệnh
EHP
vẫn
âm
thầm
dịch
chuyển
và
xâm
nhập
nhiều
nước
khác.
|
TS
Trần
Hữu
Lộc
(ĐH
Nông
Lâm
TP.
HCM)