Các
hội
nghị
chuyên
ngành
về
bệnh
tôm
và
chủ
đề
Hội
chứng
hoại
tử
gan
tụy
cấp
trên
tôm
(EMS/AHPNS)
đều
thống
nhất
rằng,
khó
có
thể
tìm
ra
một
phương
thuốc
thần
kỳ
giải
quyết
được
dịch
bệnh,
mà
cần
phải
đưa
ra
một
gói
các
giải
pháp
phòng
ngừa
chủ
động
dựa
trên
cơ
sở
hiểu
biết
đặc
điểm
của
mầm
bệnh
và
đường
lây,
động
thái
học
của
mầm
bệnh
và
tương
tác
của
mầm
bệnh
với
vật
chủ
và
môi
trường.
Tác
nhân
gây
bệnh
tôm
Trước
hết,
khi
nói
về
bệnh
hoại
tử
gan
tuỵ
cấp
(Acute
Hepatopancreatic
Necrosis
Disease -
AHPND),
Hội
chứng
tôm
chết
sớm
(Early
Mortality
Syndrome -
EMS),
hay
Hội
chứng
hoại
tử
gan
tuỵ
cấp
(Acute
Hepatopancreatic
Necrosis
Syndrome –
AHPNS),
chúng
ta
nên
thống
nhất
rằng
đang
nói
về
duy
nhất
một
bệnh
trên
tôm
với
các
tên
gọi
khác
nhau,
được
ghi
nhận
lần
đầu
tiên
ở
Trung
Quốc
năm
2009,
tại
Việt
Nam
năm
2010,
ở
Malaixia
và
Thái
Lan
năm
2011
và
ở
Mêhicô
năm
2013.
Để
thuận
tiện
cho
việc
theo
dõi,
tôi
sẽ
sử
dụng
tên
gọi EMS hiện
được
dùng
rộng
rãi
trên
truyền
thông
trong
và
ngoài
nước
như
là
tên
thông
dụng
cho
bệnh
tôm
kể
trên.
Tôi
sang
Mỹ
từ
năm
2010,
làm
nghiên
cứu
sinh
tiến
sĩ
tại
Phòng
nghiên
cứu
Bệnh
học
Thuỷ
sản,
Trường
Đại
học Arizona (Phòng
nghiên
cứu
của
GS.
Donald
Lightner
-
UAZ-APL)
nên
may
mắn
được
tham
gia
nghiên
cứu
về
bệnh
này
từ
những
ngày
đầu.
Khi
EMS
xuất
hiện
đầu
tiên
ở
Trung
Quốc
rồi
sau
đó
ở
Việt
Nam,
Malaixia
và
Thái
Lan,
gây
ra
thiệt
hại
chưa
từng
thấy
cho
nghề
nuôi
tôm
của
các
nước
sản
xuất
và
xuất
khẩu
tôm
chính
của
thế
giới,
câu
hỏi
trước
hết
là:
Nguyên
nhân
của
bệnh
là
gì?
Phân
tích
bệnh
học
các
mẫu
bệnh
phẩm
mà
Trường
Đại
học Arizona nhận
được
từ
các
nước
có EMScho
thấy,
đây
là
một
bệnh
chưa
từng
được
ghi
nhận
trên
tôm.
Nhận
lời
mời
của
Tổ
chức
Sức
khoẻ
Động
vật
Thế
giới
(OIE)
phối
hợp
cùng
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
Nông
thôn
Việt Nam,
Tổng
Cục
Thuỷ
sản,
Cục
Thú
y
Việt Nam,
các
cơ
quan
chức
năng
các
tỉnh
duyên
hải
có
nghề
nuôi
tôm
của
ViệtNam,
và
sự
hỗ
trợ
của
rất
nhiều
các
tổ
chức
(World
Bank,
FAO,
Global
Aquaculture Alliance),
các
doanh
nghiệp
trong
và
ngoài
nước
(Tập
đoàn
Thuỷ
sản
Minh
Phú,
CP
Thái
Lan,
Grobest,
Uni-
President,
Sheng
Long
Bio-tech,
Công
ty
Lasan),
các
nhà
khoa
học
của
Trường
Đại
học
Arizona
đã
đến
Việt Nam nghiên
cứu
từ
năm
2011.
Sau
gần
3
năm
nỗ
lực
làm
việc
tại
Việt
Nam
và
Mỹ,
đến
năm
2013,
nghiên
cứu
của
tôi,
do
GS
Lightner
hướng
dẫn,
đã
xác
định
được
nguyên
nhân
của
bệnh
EMS
là
do
một
dòng
đặc
biệt
của
vi
khuẩn Vibrio
parahaemolyticus gây
ra.
Tôi
muốn
nhấn
mạnh
thêm
rằng,
vi
khuẩn Vibrio
parahaemolyticus là
loài
vi
khuẩn
vô
cùng
phổ
biến
trong
môi
trường
và
chỉ
có
một
dòng
đặc
biệt
của
loài
vi
khuẩn
này
gây
được
bệnh.
Do
đó,
các
phương
pháp
xét
nghiệm
thông
thường
sẽ
không
thể
xác
định
được
sự
tồn
tại
của
dòng
vi
khuẩn
gây
bệnh
này.
Tôi
là
tác
giả
chính
của
nghiên
cứu
này
và
đã
có
những
đăng
tải
về
các
công
trình
nghiên
cứu
này
trên
các
tạp
chí
khoa
học
quốc
tế.
Nghiên
cứu
này
giúp
tôi
bảo
vệ
thành
công
luận
án
tiến
sĩ
vào
năm
2013.
TS.
Trần
Hữu
Lộc
và
GS.
Donald
Lightner
Có
nhiều
ý
kiến
cho
rằng
có
những
loài
vi
khuẩn
này,
khác
cùng
gây
bệnh
EMS;
tuy
nhiên,
các
loài
vi
khuẩn
đã
được
đề
cập
không
thoả
mãn
định
đề
Koch
như
là
một
mầm
bệnh
truyền
nhiễm
và
không
tạo
ra
được
bệnh
tích
đặc
trưng
của
EMS.
Việc
thống
nhất
về
nguyên
nhân
gây
bệnh
sẽ
giúp
chúng
ta
nhanh
chóng
tăng
tốc
nghiên
cứu
theo
hướng
tìm
giải
pháp
khắc
phục
bệnh.
Có
khả
năng
trị
bệnh
triệt
để
hay
chỉ
phòng
ngừa?
Lịch
sử
ngành
bệnh
học
tôm
cho
thấy
việc
điều
trị
sau
khi
bệnh
đã
xảy
ra
là
rất
khó,
do
tôm
không
có
hệ
miễn
dịch
đặc
hiệu;
sau
khi
mắc
bệnh
tôm
thường
bỏ
ăn
nên
không
đưa
thuốc
vào
được;
và
thường
khi
mắc
bệnh,
tôm
chết
rất
nhanh
nên
khó
có
thể
điều
trị
kịp.
Ngoài
ra,
các
vấn
đề
quan
ngại
cho
sức
khoẻ
người
tiêu
dùng
ở
các
nước
nhập
khẩu
tôm
như
dư
lượng
kháng
sinh,
hoá
chất
cấm,
v.v...
khiến
việc
lựa
chọn
phương
pháp
điều
trị
bệnh
tôm
là
rất
hạn
chế.
Đối
với
bệnh EMS,
các
nghiên
cứu
của
tôi
cho
thấy,
sau
khi
bị
nhiễm
mầm
bệnh,
tôm
có
thể
chết
rất
nhanh,
có
khi
chỉ
sau
khi
tiếp
xúc
với
mầm
bệnh
chưa
đầy
12
tiếng.
Ngoài
ra,
chính
con
tôm
bệnh
trở
thành
nguồn
lây
cho
các
con
tôm
khỏe
khác
trong
đàn
qua
đường
nước,
phân
và
cả
xác
tôm
chết,
làm
cho
bệnh
lan
rất
nhanh.
Đó
là
lý
do
một
khi
đàn
tôm
đã
nhiễm
bệnh
thì
việc
cứu
chữa
là
rất
khó
khăn
và
ít
hiệu
quả.
Các
hội
nghị
chuyên
ngành
về
bệnh
tôm
và
chủ
đề
EMS
trong
đó
có
tôi
tham
dự
đều
thống
nhất
rằng,
khó
có
thể
tìm
ra
một
phương
thuốc
thần
kỳ
nào
giải
quyết
được
vấn
đề
dịch
bệnh
tôm
EMS,
mà
cần
đưa
ra
một
gói
các
giải
pháp
phòng
ngừa
chủ
động
dựa
trên
cơ
sở
hiểu
biết
đặc
điểm
của
mầm
bệnh
và
đường
lây,
động
thái
học
của
mầm
bệnh
và
tương
tác
của
mầm
bệnh
với
vật
chủ
và
môi
trường.
Việc
thiếu
các
thông
tin
và
hiểu
biết
về
các
vấn
đề
nêu
trên
sẽ
dễ
dẫn
đến
những
lập
luận
thiếu
cơ
sở
về
bệnh
EMS/AHPND,
như
các
vấn
đề
về
pH
trong
ao
nuôi,
về
việc
có
nên
khử
trùng
nước
ao
hay
không,
cũng
như
mức
độ
cảm
nhiễm
khác
nhau
giữa
tôm
chân
trắng
và
tôm
sú
như
chúng
ta
vẫn
nghe.
Biện
pháp
phòng
bệnh
nào
khả
thi
nhất
và
có
thể
áp
dụng
trên
diện
rộng?
Theo
quan
điểm
riêng
của
tôi,
để
tiến
đến
các
giải
pháp
phòng
ngừa
bệnh EMS khả
thi,
trước
tiên
phải
hiểu
rõ
các
đường
lây
bệnh,
từ
đó
mới
đánh
giá
các
giải
pháp
có
tác
dụng
như
thế
nào,
đối
với
đường
lây
nào?
Các
nghiên
cứu
của
tôi
cho
thấy
bệnh EMS lây
qua
đường
miệng,
khi
trong
nguồn
nước
có
nhiễm
mầm
bệnh,
hoặc
tôm
ăn
xác
tôm
chết
hay
các
giá
thể
có
mang
mầm
bệnh.
Đây
là
đường
lây
ngang.
Các
quan
sát
khác
cũng
cho
thấy
có
sự
liên
hệ
mật
thiết
giữa
việc
di
chuyển
tôm
giống,
tôm
bố
mẹ
với
sự
phát
tán
của
bệnh.
Điều
này
gợi
ý
rằng,
rất
có
thể
bệnh
cũng
lây
truyền
theo
đường
dọc
từ
tôm
bố
mẹ
mang
mầm
bệnh
sang
tôm
con,
và
khi
tôm
con
mang
mầm
bệnh,
bệnh
sẽ
bùng
phát
trong
điều
kiện
ao
nuôi.
Theo
quan
sát
và
nghiên
cứu
của
tôi,
khi
mầm
bệnh
được
dịch
chuyển
đến
một
vùng
nuôi
hoàn
toàn
mới
hoặc
một
quốc
gia
chưa
từng
có
bệnh
EMS,
thì
đường
truyền
dọc
từ
tôm
bố
mẹ
sang
tôm
giống
là
phổ
biến
nhất;
ví
dụ
cụ
thể
là
sự
bùng
phát
của
dịch
bệnh
ở
Mêhicô
năm
2013.
Một
khi
mầm
bệnh
đã
bùng
phát
ở
vùng
nuôi,
mầm
bệnh
có
xu
hướng
tồn
tại
và
tích
luỹ
trong
môi
trường
nước
và
ao
nuôi,
dẫn
đền
khả
năng
rất
cao
là
bệnh
sẽ
tiếp
tục
tái
diễn
trên
chính
ao
nuôi,
vùng
nuôi
đã
xuất
hiện
dịch
bệnh
trước
đó.
Chúng
ta
có
thể
nhận
thấy
điều
này
qua
bằng
chứng
ở
vùng
nuôi
tôm
ở
Sóc
Trăng
năm
2011
và
2012,
với
hiện
tượng
dịch
bệnh
tiếp
diễn
liên
tục
và
gần
như
không
thể
kiểm
soát
được.
Tuy
nhiên,
sau
một
thời
gian
bỏ
nuôi,
để
ao
nghỉ
thì
việc
nuôi
lại
cho
khả
năng
thành
công
cao
hơn
hẳn.
Theo
tôi,
hiện
tại,
ở
hầu
hết
các
vùng
nuôi
tôm
của
Việt Nam đều
đã
từng
xảy
ra
dịch
bệnh.
Do
đó,
việc
chú
trọng
ngăn
ngừa
bệnh
từ
đường
lây
dọc
và
lây
ngang
đều
có
ý
nghĩa
quan
trọng
như
nhau.
Các
biện
pháp
ngăn
ngừa
sự
lây
lan
qua
đường
dọc
bao
gồm
các
giải
pháp
tổng
hợp
từ
trại
tôm
giống,
với
sự
kiểm
soát
chất
lượng
tôm
bố
mẹ,
kiểm
tra
mầm
bệnh
từ
tôm
bố
mẹ,
các
chế
tài
quản
lý
XNK
tôm
bố
mẹ
và
tôm
giống
vào
Việt Nam,
quản
lý
chất
lượng
tôm
giống
trước
khi
xuất
bán,
v.v...
Theo
tôi,
để
quản
lý
dịch
bệnh
thành
công,
việc
quản
lý
tôm
giống
có
vai
trò
đặc
biệt
then
chốt.
Ở
góc
độ
của
người
nuôi
tôm
quy
mô
nhỏ,
có
thể
áp
dụng
các
biện
pháp
để
ngăn
ngừa
các
cơ
chế
lây
ngang
của
bệnh,
thông
qua
các
bước
chuẩn
bị
ao
nuôi
đúng
quy
trình,
trại
nuôi
có
ao
lắng
đúng
quy
cách,
áp
dụng
các
biện
pháp
an
toàn
sinh
học;
có
các
biện
pháp
cắt
mầm
bệnh
đối
với
các
ao
nuôi
đã
từng
xuất
hiện
bệnh
thông
qua
việc
luân
canh
và
đa
canh,
có
thời
gian
phơi
và
cày
đáy
ao
đủ
lâu
giữa
các
vụ
nuôi,
luân
canh
tôm-lúa,
tôm-cá,
đa
canh
với
cá
hoặc
nuôi
cá
trong
ao
lắng,
thực
hiện
các
thực
hành
nuôi
tốt,
v.v...
Ở
quy
mô
các
trang
trại
lớn
hoặc
các
công
ty
có
đủ
tiềm
lực
về
tài
chính
và
khả
năng
tự
sản
xuất
con
giống
hoặc
liên
kết
với
các
công
ty
cung
cấp
tôm
giống,
có
thể
kiểm
soát
và
đảm
bảo
chất
lượng
tôm
giống,
quy
hoạch
vùng
nuôi
theo
hướng
an
toàn
sinh
học,
đầu
tư
cho
công
tác
khoa
học
trong
kiểm
soát
chất
lượng
tôm
giống
và
quan
trắc
mầm
bệnh
trong
trại
giống
và
trại
nuôi,
ứng
dụng
công
nghệ
cao
trong
nuôi
tôm
như
công
nghệ
nuôi
tôm
trong
nhà,
biofloc,
v.v...
Tôm
bệnh
Theo
tôi,
bất
kỳ
thách
thức
nào
cũng
cùng
lúc
đem
lại
những
cơ
hội,
buộc
chúng
ta
tự
thay
đổi
để
tiến
tới
bước
phát
triển
cao
hơn.
Bệnh
EMS
cũng
không
là
ngoại
lệ.
Trước
tình
hình
dịch
bệnh
và
để
khống
chế
dịch
bệnh
một
cách
căn
cơ,
hiệu
quả,
đã
dần
xuất
hiện
những
mô
hình
hay,
ví
dụ
như
của
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú
và
các
đơn
vị
cùng
ngành
khác,
đang
hình
thành
chuỗi
liên
kết
cung
ứng
tôm
bền
vững,
trong
đó
có
sự
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
trại
sản
xuất
giống
và
vùng
nuôi
với
các
cơ
sở
nghiên
cứu
khoa
học,
đảm
bảo
sản
xuất
và
cung
cấp
tôm
giống
theo
hướng
loại
bỏ
mầm
bệnh
EMS
và
các
mầm
bệnh
khác
trước
khi
đến
trại
nuôi;
là
công
tác
hỗ
trợ
kỹ
thuật
để
phòng
bệnh
tại
vùng
nuôi
theo
hướng
an
toàn
sinh
học,
giảm
thiểu
và
tiến
tới
không
sử
dụng
kháng
sinh
trong
nuôi
tôm;
là
chuỗi
cung
ứng
thức
ăn
và
vật
tư
thuỷ
sản
chất
lượng
cao,
và
cuối
cùng
là
cam
kết
thu
mua
tôm
với
giá
cao,
ổn
định
khi
tôm
được
nuôi
theo
quy
trình
như
trong
chuỗi
liên
kết.
Tôi
nhận
thấy
cách
làm
này
là
định
hướng
hay,
bền
vững
và
sẽ
phát
triển
mạnh,
trong
đó
các
bên
từ
nhà
sản
xuất
giống,
người
nuôi,
người
cung
cấp
dịch
vụ,
khoa
học,
và
nhà
chế
biến
tôm
có
thể
ngồi
lại
với
nhau,
cùng
chia
sẻ
lợi
ích
và
cùng
khống
chế
rủi
ro
trong
nghề
nuôi
tôm.
Theo
tôi,
việc
khống
chế
bệnh EMS không
nên
coi
là
việc
tìm
kiếm
những
giải
pháp
riêng
rẽ
hay
một
liệu
pháp
thần
kỳ.
Việc
khống
chế
bệnh
thành
công
nên
dựa
trên
chương
trình
kiểm
soát
các
yếu
tố
rủi
ro
có
thể
dẫn
đến
dịch
bệnh
như
đã
nêu
trên.
Tuỳ
thực
tế
của
từng
cá
nhân
và
đơn
vị
nuôi
tôm
mà
chúng
ta
có
các
lựa
chọn
cách
ứng
dụng
các
biện
pháp
giảm
thiểu
rủi
ro
phù
hợp.
Tác
dụng
và
cách
thức
triển
khai
nuôi
ghép
cá
rô
phi
(và
loài
cá
khác)
Tôi
có
một
số
nghiên
cứu
về
tác
dụng
của
cá
rô
phi,
đăng
tải
trên
Tập
san
của
Liên
minh
Nuôi
thuỷ
Sản
Thế
giới
(Global
Aquaculture
Alliance
Advocate số
tháng
1-2/2014).
Theo
kết
quả
nghiên
cứu
đến
thời
điểm
này,
cá
rô
phi
giúp
thiết
lập
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
trong
nước
ao
với
các
quần
thể
tảo
và
vi
khuẩn
cân
bằng.
Trong
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
cân
bằng
như
vậy,
vi
khuẩn
gây
bệnh
ít
có
cơ
hội
phát
triển
đến
đủ
mật
độ
có
thể
gây
bệnh
cho
tôm.
Sự
hiện
diện
của
cá
rô
phi
còn
giúp
cho
các
biến
động
lớn
về
hệ
vi
sinh
này
ít
xảy
ra.
Một
khi
hệ
vi
sinh
trong
ao
có
sự
biến
động
lớn
như
hiện
tượng
sụp
tảo
trong
ao
thì
khả
năng
vi
khuẩn
gây
bệnh
bùng
phát
để
gây
bệnh
trên
tôm
là
rất
lớn.
Nếu
cá
rô
phi
thả
trong
ao
nuôi
chung
với
tôm
ở
một
mật
độ
thấp
vừa
phải
thì
nó
có
tác
dụng
diệt
tảo
đáy,
làm
sạch
đáy
ao,
ăn
các
con
tôm
bệnh
chết
giúp
giảm
sự
lan
truyền
của
bệnh
v.v...
Một
số
loài
cá
khác
cũng
có
thể
có
một
phần
tác
dụng
tương
tự
như
cá
rô
phi.
Theo
tôi,
tuỳ
vào
hoàn
cảnh
sản
xuất
và
hệ
thống
nuôi
của
từng
trang
trại,
có
thể
ứng
dụng
cá
rô
phi
theo
các
cách
linh
hoạt
như:
nuôi
cá
rô
phi
trong
ao
lắng
để
hoạt
hoá
nước
trước
khi
lấy
nước
cho
ao
nuôi,
nuôi
cá
rô
phi
trong
lồng
hoặc
vèo
đặt
trong
ao
tôm,
nuôi
luân
canh
một
vụ
tôm
một
vụ
cá
để
làm
sạch
môi
trường
và
cắt
mầm
bệnh,
nuôi
xen
cá
rô
phi
mật
độ
thưa
trong
ao
để
cá
dọn
đáy
ao,
tảo
đáy
và
ăn
tôm
chết,
v.v...
Tác
dụng
và
nguy
cơ
của
việc
sử
dụng
kháng
sinh
Trong
việc
nuôi
tôm
để
xuất
khẩu,
nếu
không
có
cách
quản
lý
mầm
bệnh
trong
ao
nuôi
thì
vi
khuẩn
gây
bệnh
luôn
hiện
diện
và
sẽ
dẫn
đến
việc
bị
lệ
thuộc
vào
kháng
sinh.
Sử
dụng
kháng
sinh
liên
tục
sẽ
dẫn
đến
việc
vi
khuẩn
kháng
kháng
sinh,
bắt
buộc
ta
phải
tăng
liều,
đổi
kháng
sinh
v.v...
Việc
sử
dụng
kháng
sinh
lâu
dài
sẽ
ảnh
hưởng
đến
sức
khoẻ.
Một
nghiên
cứu
của
tôi
và
cộng
sự
thực
hiện
từ
năm
2012
đến
nay
cho
thấy
bà
con
nuôi
tôm
ở
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
chủ
yếu
sử
dụng
oxytetracyline
để
trộn
vào
thức
ăn
tôm
một
cách
định
kỳ.
Tuy
nhiên,
mặc
dù
có
sử
dụng
kháng
sinh,
tác
dụng
giảm
thiểu
bệnh EMS là
không
rõ
ràng.
Nghiên
cứu
về
sự
kháng
kháng
sinh
của
các
chủng
vi
khuẩn
gây
bệnh
EMS
thu
từ
chính
vùng
dịch
tỉnh
Sóc
Trăng
cho
thấy,
trong
các
chủng
vi
khuẩn
của
loài
vi
khuẩn
Vibrio
parahaemolyticus
gây
bệnh EMS và
các
chủng
không
gây
bệnh EMS được
phân
lập
trên
tôm
bệnh
từ
năm
2011,
2012
và
2013,
tất
cả
các
mẫu
vi
khuẩn Vibrio
parahaemolyticus phân
lập
từ
năm
2011
và
2012
đều
mẫn
cảm
với
kháng
sinh
oxytetracycline.
Trong
khi
đó,
hầu
hết
các
mẫu
vi
khuẩn,
cả
gây
bệnh
và
không
gây
bệnh EMS,
phân
lập
từ
tôm
bệnh
năm
2013
đều
hoàn
toàn
kháng
kháng
sinh
này.
Đó
là
bằng
chứng
cho
thấy
loài
vi
khuẩn
này
có
khả
năng
kháng
kháng
sinh
rất
nhanh,
dẫn
đến
làm
mất
tác
dụng
của
việc
chữa
trị.
Ở
góc
độ
khoa
học,
tôi
không
ủng
hộ
hay
bài
bác
việc
sử
dụng
kháng
sinh,
mà
chỉ
muốn
nhấn
mạnh
rằng,
chúng
ta
nên
sử
dụng
sao
cho
hợp
lý
và
hiệu
quả,
đúng
lúc,
đúng
liều,
đúng
thuốc
và
an
toàn.
Kháng
sinh
nên
được
xem
là
hàng
rào
phòng
thủ
cuối
cùng
chứ
không
nên
xem
là
một
biện
pháp
phòng
bệnh.
Tiềm
năng
của
biofloc
Theo
tôi,
biofloc
là
một
công
nghệ
nuôi
có
nhiều
tiềm
năng,
nhưng
đòi
hỏi
đầu
tư,
kỹ
thuật,
và
kiến
thức
cao.
Nếu
ứng
dụng
thành
công,
hiệu
quả
sẽ
rất
lớn.
Tuy
nhiên,
không
phải
ai
cũng
có
đủ
điều
kiện
đầu
tư
ứng
dụng
công
nghệ
này.
Ngoài
ra,
các
vấn
đề
về
kỹ
thuật
cũng
hết
sức
phức
tạp
và
đòi
hỏi
sự
tích
luỹ
kinh
nghiệm
để
vận
hành
hệ
thống
này
được
hiệu
quả.
Về
tác
dụng
của
biofloc,
tôi
có
một
nghiên
cứu
và
nhận
thấy
rằng
về
nguyên
tắc
chung,
biofloc
cũng
cho
tác
dụng
gần
giống
việc
nuôi
cá
rô
phi
trong
ao
ở
đặc
điểm
hệ
thống
biofloc
tạo
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
vật
dày
đặc
trong
nước.
Ở
điều
kiện
đó,
vi
khuẩn
gây
bệnh
khó
có
thể
phát
triển
đủ
mật
độ
gây
bệnh.
Tuy
nhiên,
việc
quản
lý
một
hệ
sinh
thái
vi
sinh
vật
phức
tạp
như
vậy
trong
ao
nuôi
là
không
hề
đơn
giản.
TS.
Trần
Hữu
Lộc
-
Đại
học
Arizona,
Hoa
Kỳ
*
Bài
viết
theo
đề
nghị
của
Tạp
chí
Thương
mại
Thủy
sản