Bệnh
đốm
trắng
do
virus
(White
Spot
Syndrome
Virus
-
WSSV)
là
một
trong
các
bệnh
gây
nên
hiện
tượng
tôm
nuôi
chết
hàng
loạt
trong
các
vùng
nuôi
tôm
tại
các
địa
phương
ven
biển
ở
nước
ta
từ
nhiều
năm
qua.
Riêng
năm
2014,
theo
số
liệu
của
Cục
Thú
y,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn,
bệnh
đốm
trắng
đã
xảy
ra
tại
250
xã,
68
huyện
thuộc
22
tỉnh,
thành
phố
trong
cả
nước,
trải
dọc
theo
chiều
dài
đất
nước
từ
Quảng
Ninh
đến
Cà
Mau.
So
với
năm
trước,
tuy
số
các
địa
phương
để
xảy
ra
bệnh
đốm
trắng
giảm
nhưng
diện
tích
nuôi
tôm
bị
bệnh
lại
tăng
gần
gấp
đôi,
lên
tới
hơn
22.600
ha,
chiếm
3,33%
tổng
diện
tích
nuôi
tôm
của
cả
nước
-
trong
đó
có
hơn
13.300
ha
nuôi
thâm
canh
và
bán
thâm
canh,
cùng
với
hơn
9.200
ha
nuôi
quảng
canh
và
quảng
canh
cải
tiến.
Qua
theo
dõi,
nhận
thấy
bệnh
đốm
trắng
xảy
ra
trong
năm
qua
ở
cả
2
loài
tôm
nuôi
chính
là
tôm
chân
trắng
và
tôm
sú,
với
độ
tuổi
từ
10
đến
110
ngày
sau
khi
thả
giống.
Diện
tích
nuôi
tôm
sú
bị
bệnh
này
nhiều
hơn,
chiếm
khoảng
60%
số
diện
tích
nuôi
tôm
bị
bệnh
đốm
trắng.
Trong
năm
2014,
đã
có
3
tỉnh
công
bố
dịch
là
Sóc
Trăng,
Nghệ
An
và
Quảng
Ninh.
Sóc
Trăng
cũng
là
địa
phương
bị
thiệt
hại
nhiều
nhất
với
11.000
ha
nuôi
tôm
bị
bệnh,
chiếm
gần
nửa
số
diện
tích
nuôi
bị
bệnh
đốm
trắng
trong
cả
nước.
Các
nhà
nghiên
cứu
bệnh
học
thủy
sản
cho
biết,
bệnh
đốm
trắng
thường
xuất
hiện
ở
tôm
nuôi
vào
mùa
xuân
và
đầu
mùa
hè
khi
khí
hậu,
thời
tiết
thay
đổi
nhiều
như
sự
biến
thiên
quá
lớn
của
biên
độ
nhiệt
giữa
ngày
và
đêm
dẫn
đến
tôm
bị
sốc
và
dễ
nhiễm
bệnh.
Bệnh
đốm
trắng
được
chia
làm
2
dạng:
dạng
1
là
bệnh
cấp
tính
thường
làm
cho
tôm
nuôi
-
nhất
là
các
loài
tôm
thuộc
giống
tôm
he
(Penaeus)
-
bị
chết
hàng
loạt
với
tỷ
lệ
cao
trong
vòng
vài
tuần;
dạng
2
là
bệnh
tiềm
ẩn,
tồn
tại
độc
lập
trong
các
loài
thuộc
giống
tôm
càng
xanh
(Macrobrachium),
các
loài
cua
và
tôm
hùm
sống
trong
tự
nhiên
và
thường
không
có
dấu
hiệu
bệnh
lý.
Vi-rút
gây
bệnh
đốm
trắng
phân
bố
rộng
ở
những
vật
chủ
khác
nhau,
không
chỉ
ở
một
số
loài
thuộc
giống
tôm
he
mà
còn
ở
nhiều
loài
khác
trong
bộ
Mười
chân
(Decapoda)
như
cua,
ghẹ,
tôm
hùm...
Điều
này
rất
nguy
hiểm
do
có
nguy
cơ
làm
tăng
khả
năng
lây
lan
rộng
rãi
bệnh
trong
môi
trường.
Bệnh
lan
truyền
chủ
yếu
theo
chiều
ngang
qua
nước,
thức
ăn
và
rất
dễ
bùng
phát
khi
môi
trường
biến
đổi
theo
chiều
hướng
xấu
làm
cho
tôm
nuôi
bị
sốc.
Trong
3
năm
gần
đây,
nhóm
cán
bộ
khoa
học
của
Viện
nghiên
cứu
Nuôi
trồng
thủy
sản
II,
Bộ
Nông
nghiệp
và
PTNT
đã
triển
khai
thực
hiện
đề
tài
"Bước
đầu
nghiên
cứu,
sản
xuất
tolerine
có
khả
năng
hạn
chế
lây
lan
của
virus
gây
bệnh
đốm
trắng
trên
tôm
sú
nuôi
thương
phẩm
ở
đồng
bằng
sông
Cửu
Long".
Kết
quả
đã
tạo
ra
được
dòng
nấm
men
có
mang
gen
VP28
của
virus
gây
bệnh
đốm
trắng
có
khả
năng
sản
sinh
protein
VP28
dùng
làm
tolerine
phòng
bệnh
đốm
trắng
cho
tôm
sú.
Tolerine
được
xác
định
có
tính
an
toàn
100%
và
bước
đầu
cho
thấy
có
khả
năng
bảo
vệ
tôm
sú
nuôi
trước
bệnh
đốm
trắng,
tuy
không
được
toàn
phần.
Hiện
nay,
đề
tài
đang
tiến
hành
xác
định
thời
gian
và
số
lần
cho
ăn
tolerine
thích
hợp
để
tolerine
có
hiệu
quả
bảo
vệ
cao
nhất
đối
với
tôm,
đồng
thời
cũng
xác
định
hiệu
quả
của
tolerine
trong
việc
hạn
chế
sự
lây
lan
của
virus
gây
bệnh
đốm
trắng
ở
tôm
nuôi.
Trước
tình
hình
diện
tích
nuôi
tôm
sú
bị
bệnh
đốm
trắng
tăng
nhiều,
trong
vụ
nuôi
tôm
năm
nay,
người
nuôi
tôm
cần
áp
dụng
các
công
nghệ
nuôi
thân
thiện
với
môi
trường
để
phòng,
chống
bệnh
hiệu
quả,
đạt
năng
suất,
sản
lượng
cao
và
đảm
bảo
chất
lượng
sản
phẩm
tôm
nuôi.
Trong
quá
trình
nuôi
tôm,
cần
đặc
biệt
chú
ý
đến
việc
duy
trì
ổn
định
môi
trường
nuôi
bằng
các
biện
pháp
cơ
học
như
quạt
nước,
sục
khí
đáy
và
xi
phông
đáy
ao;
các
biện
pháp
hóa
dược
như
bón
vôi
để
duy
trì
pH,
tăng
độ
kiềm;
các
biện
pháp
sinh
học
như
dùng
chế
phẩm
sinh
học
để
cải
tạo
môi
trường
ao
nuôi...
Bên
cạnh
đó,
rất
chú
trọng
khâu
nâng
cao
sức
đề
kháng
cho
tôm
nuôi
thông
qua
việc
sử
dụng
các
biện
pháp
quản
lý
chăm
sóc
tốt,
dùng
thức
ăn
chất
lượng
cao
để
nuôi
tôm,
cho
tôm
ăn
bổ
sung
các
loại
enzym,
vitamin,
chất
khoáng
vi
lượng
nhằm
giúp
tôm
tăng
cường
khả
năng
tiêu
hóa
và
sức
đề
kháng
với
bệnh.
Việc
áp
dụng
các
quy
trình
nuôi
tôm
tiên
tiến
-
trong
đó
có
quy
trình
nuôi
tôm
dùng
chế
phẩm
sinh
học
và
quy
trình
nuôi
tôm
theo
công
nghệ
biofloc
có
tác
dụng
rất
lớn
nhằm
phòng,
chống
bệnh
đốm
trắng
cho
tôm
nuôi.
Quy
trình
nuôi
tôm
dùng
chế
phẩm
sinh
học
do
Bộ
Nông
nghiệp
và
PTNT
ban
hành,
theo
đó,
trong
quá
trình
nuôi
có
dùng
các
loại
chế
phẩm
vi
sinh
(có
tên
trong
Danh
mục
được
Bộ
cho
phép
sử
dụng)
để
làm
sạch
môi
trường
nước
ao
nuôi,
đồng
thời
bổ
sung
các
loại
men
tiêu
hóa
vào
thức
ăn
và
cho
tôm
ăn
hàng
ngày
với
lượng
phù
hợp.
Định
kỳ
hàng
tháng
trong
suốt
vụ
nuôi,
cho
tôm
ăn
thêm
các
loại
vitamin
A,
C,
D,
E
và
bổ
sung
các
chất
khoáng
vi
lượng
vào
ao
nuôi.
Quy
trình
nuôi
tôm
theo
công
nghệ
biofloc
là
quy
trình
ứng
dụng
công
nghệ
biofloc
để
nuôi
tôm
thâm
canh.
Công
nghệ
biofloc
dựa
trên
nguyên
lý
bổ
sung
một
tỷ
lệ
phù
hợp
nguồn
cacbon
làm
thức
ăn
cho
vi
sinh
vật
dị
dưỡng
với
nguồn
nitơ
có
sẵn
trong
nước
ao
nuôi,
tạo
điều
kiện
cho
vi
sinh
vật
phát
triển
ưu
thế
trong
ao
nuôi.
Công
nghệ
biofloc
giải
quyết
được
2
vấn
đề
trong
quá
trình
nuôi,
đó
là
loại
bỏ
các
chất
dinh
dưỡng
chuyển
hóa
vào
sinh
khối
vi
sinh
vật
dị
dưỡng
xử
lý
nước
ao
nuôi,
và
sử
dụng
tập
hợp
các
biofloc
làm
nguồn
thức
ăn
tự
nhiên
giàu
dinh
dưỡng
bổ
sung
tại
chỗ
cho
tôm
nuôi.
Khi
nuôi
tôm
theo
công
nghệ
biofloc,
người
nuôi
không
cần
thiết
phải
xây
dựng
hệ
thống
lọc
sinh
học
phụ
trợ
vì
các
quá
trình
vi
sinh
giúp
khử
độc
tính
của
các
hợp
chất
chứa
nitơ
đều
diễn
ra
ngay
trong
môi
trường
nước
của
hệ
thống
nuôi,
đồng
thời
cũng
không
cần
dùng
các
biện
pháp
khác
để
khử
trùng
nước,
ví
dụ
khử
trùng
bằng
khí
ôzôn,
vì
chúng
sẽ
cản
trở
hoạt
động
của
vi
sinh
vật
trong
nước.
Do
đó,
công
nghệ
biofloc
giúp
làm
giảm
chi
phí
thức
ăn,
nâng
cao
an
toàn
sinh
học,
hạn
chế
tối
đa
sự
nhiễm
bệnh,
nhất
là
các
bệnh
do
virus
gây
Theo
Khuyến
nông
Việt
Nam